Oops!... I Did It Again

Oops!... I Did It Again
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành3 tháng 5 năm 2000 (2000-05-03)
Thu âm20 tháng 9, 1999 – 26 tháng 2, 2000
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng44:37
Hãng đĩaJive
Sản xuất
Thứ tự album của Britney Spears
...Baby One More Time
(1999)
Oops!... I Did It Again
(2000)
Britney
(2001)
Đĩa đơn từ Oops!... I Did It Again
  1. "Oops!... I Did It Again"
    Phát hành: 11 tháng 4, 2000
  2. "Lucky"
    Phát hành: 25 tháng 7, 2000
  3. "Stronger"
    Phát hành: 31 tháng 10, 2000
  4. "Don't Let Me Be the Last to Know"
    Phát hành: 12 tháng 3, 2001

Oops!... I Did It Againalbum phòng thu thứ hai của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 3 tháng 5 năm 2000 bởi Jive Records. Sau thành công lớn của album đầu tay ...Baby One More Time (1999) và ngay khi kết thúc chuyến lưu diễn cùng tên, Spears bắt đầu thu âm album tiếp theo vào tháng 9 năm 1999. Dưới áp lực bởi thành tích thương mại của ...Baby One More Time, cô hợp tác với nhiều nhà sản xuất như Max Martin, Rami Yacoub, Per Magnusson, David Kreuger, Kristian Lundin, Jake Schulze, DarkchildRobert John "Mutt" Lange để tạo nên một đĩa hát pop, dance-popteen pop mang nhiều sắc thái tương đồng với album đầu tay, kết hợp với một số thể loại khác như funkR&B. Ngoài ra, Spears cũng thể hiện lại "You Got It All" của The Jets trong những phiên bản quốc tế và "(I Can't Get No) Satisfaction" của The Rolling Stones. Sau khi phát hành, album nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao quá trình sản xuất và chất giọng của nữ ca sĩ.

Oops!... I Did It Again gặt hái những thành công rực rỡ về mặt thương mại trên toàn cầu, đạt vị trí số một tại hơn 20 quốc gia. Tại Hoa Kỳ, album ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 1.319 triệu bản được tiêu thụ, nắm giữ kỷ lục là album có doanh số tuần đầu cao nhất của một nghệ sĩ nữ trong 15 năm, trước khi bị phá vỡ bởi Adele với album 25 (2015), bán được hơn 3.38 triệu bản trong tuần ra mắt. Ngoài ra, đĩa hát còn nhận được một đề cử giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 43. Oops!... I Did It Again được chứng nhận đĩa Kim cương bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), công nhận lượng đĩa tiêu thụ cán mốc mười triệu bản, trở thành album thứ hai liên tiếp của Spears đạt thành tích này và giúp cô trở thành nghệ sĩ trẻ nhất có nhiều album Kim cương. Tính đến nay, album bán được hơn 20 triệu bản trên toàn thế giới, trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.

Bốn đĩa đơn đã được phát hành từ Oops!... I Did It Again. Bài hát chủ đề gặt hái những thành công lớn về mặt thương mại, đạt vị trí quán quân tại 17 quốc gia và vươn đến vị trí thứ chín trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. "Lucky" lọt vào top 10 ở 16 quốc gia, nhưng chỉ đạt vị trí thứ 23 trên Billboard Hot 100. "Stronger" trở thành đĩa đơn bán chạy nhất album và đạt vị trí thứ 11 trên Billboard Hot 100. Đĩa đơn cuối cùng "Don't Let Me Be the Last to Know" chỉ gặt hái những thành công tương đối ở châu Âu và không thể lọt vào bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ. Để quảng bá album, Spears xuất hiện và trình diễn trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải, bao gồm màn trình diễn gây tranh cãi tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2000, đồng thời dẫn dắt và biểu diễn lần đầu tiên trên Saturday Night Live. Ngoài ra, nữ ca sĩ cũng thực hiện chuyến lưu diễn thứ ba trong sự nghiệp Oops!... I Did It Again Tour với 87 đêm diễn và đi qua Bắc Mỹ và châu Âu.

Thu âm và sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
"Khi tôi thực hiện album đầu tiên, tôi chỉ mới 16. Khi nhìn vào bìa album, tôi đã nghĩ, 'Ôi, chúa ơi.' Tôi biết album tiếp theo này sẽ hoàn toàn khác–đặc biệt là chất liệu âm nhạc. Tôi vừa thu âm xong sáu bài hát đầu tiên ở Thụy Điển cách đây hai tháng, chất liệu vui nhộn và sắc sảo hơn rất nhiều. Và tất nhiên, âm nhạc cũng chững trạc hơn vì tôi đã bắt đầu trưởng thành."

—Spears nói về quá trình thu âm Oops!... I Did It Again.[1]

Sau khi hoàn thành chuyến lưu diễn ...Baby One More Time Tour và trải qua kỳ nghỉ kéo dài sáu ngày vào tháng 9 năm 1999,[2] Spears trở lại Thành phố New York vào ngày 20 tháng 9 để bắt đầu thu âm những bài hát cho album phòng thu thứ hai, họp tác với nhiều nhà sản xuất như Max Martin, Eric Foster White, Diane Warren, Robert Lange, Steve Lunt và Babyface.[3] "Where Are You Now" và bản nhạc đính kèm ở một số phiên bản quốc tế "You Got It All"–một bản hát lại của The Jets–là những bài hát chưa được sử dụng từ quá trình thu âm ...Baby One More Time. Bên cạnh đó, "Oops!... I Did It Again", "Walk on By",[a] "What U See (Is What U Get)" và "Don't Go Knockin' on My Door" được thu âm tại Cheiron Studios của Martin trong tuần đầu tháng 11. Spears thu âm "Don't Let Me Be the Last to Know" tại biệt thự của Lange ở Thụy Sĩ vào tháng 12 năm 1999; Lange cũng đồng thời sản xuất bản nhạc.[4] Quá trình thu âm được tiếp tục với "Stronger" và "Lucky", và cả hai được hoàn thiện cùng với bài hát chủ đề vào tháng 1 năm 2000.

Đến tháng 1, album lúc bấy giờ chưa được đặt tên đã hoàn thành được một nửa.[3] Một số giai điệu và phần nhạc của "Girl in the Mirror" và "Can't Make You Love Me" được sản xuất vào mùa thu năm 1999 tại Thụy Điển, trước khi Spears thu âm giọng hát vào ngày 14 tháng 1 tại Parc Studios ở Orlando, Florida.[5] Sau khi thu âm ở nhiều quốc gia, nữ ca sĩ quay lại Thành phố New York, hợp tác với Steve Lunt để thu âm "When Your Eyes Say It" của Diane Warren tại Battery Studios vào ngày 28 tháng 1, trước khi cô xuất hiện tại Total Request Live vào cùng ngày. "One Kiss from You" cũng được thu âm tại Battery Studios và được hoàn thiện tại phòng thu 3rd Floor ở Thành phố New York. Spears cũng thực hiện bản thu nháp và thu âm "Dear Diary", sau này được hoàn thành tại East Bay Recording ở Tarrytown, New YorkAvatar Studios ở Thành phố New York. Bản hát lại "(I Can't Get No) Satisfaction" được nữ ca sĩ thu âm với Rodney Jerkins tại Pacifique Recording Studios ở Los Angeles từ ngày 24 đến 26 tháng 2 năm 2000, sau giải Grammy lần thứ 42.[6]

Spears chịu nhiều áp lực phải lặp lại thành công thương mại bùng nổ của ...Baby One More Time, chia sẻ rằng: "Phải nói là rất khó để đạt được con số 10 triệu bản. Nhưng sau khi nghe những bản nhạc mới và thu âm, tôi thực sự rất tự tin về điều đó."[7] Khi phát hành album, Spears nói: "Tất nhiên là có một số áp lực", và tiếp tục: "Nhưng theo ý kiến của tôi, [Oops!] hay hơn album đầu tiên rất nhiều. Album này sắc sảo hơn – nhiều sắc thái biểu đạt hơn. Thể hiện con người tôi hơn, và tôi nghĩ khán giả trẻ sẽ kết nối nhiều hơn qua album." Geoff Mayfield, giám đốc bảng xếp hạng Billboard, cho rằng quyết định phát hành Oops!... I Did It Again chỉ sau hơn một năm kể từ khi Spears ra mắt là "thời điểm rất thông minh. Triết lý của tôi là khi bạn có nền tảng người hâm mộ trẻ, hãy chinh phục họ khi bạn vẫn đang có sức hút lớn."[8]

Nhạc và lời

[sửa | sửa mã nguồn]

Oops!... I Did It Again được coi là phần tiếp theo của ...Baby One More Time,[9] thấm đẫm sự pha trộn được lập trình bài bản giữa pop, funk, R&Bpower ballad.[10] Spears cho biết trong một bài phỏng vấn rằng album thể hiện âm hưởng pop mang hơi hướng R&B trưởng thành hơn. "Đây không phải điều tôi chủ đích thay đổi", Spears nói về âm nhạc của album và tiếp tục: "Đây chỉ là thứ gì đó tự thay đổi khi tôi trưởng thành. Giọng hát của tôi đã thay đổi đôi chút và tôi tự tin hơn, và tôi nghĩ điều đó cũng phản ánh qua chất liệu nhạc."[1] Rodney "Darkchild" Jerkins nói về việc hợp tác với Spears cho bản hát lại "(I Can't Get No) Satisfaction" của The Rolling Stones: "Bài hát sẽ gây sốc cho mọi người. Ở đó có dư vị của bản gốc, nhưng sẽ là một phiên bản đậm chất năm 2000 — rất mới mẻ với tai người nghe. Điều đó thật thú vị, vì những người từng đánh giá cao bản gốc sẽ yêu thích bản nhạc. Và tôi đã khiến tác phẩm trở nên mới mẻ và trẻ trung đến mức những đứa trẻ hâm mộ Britney cũng sẽ yêu thích. Bài hát sẽ thu hút cả khán giả trưởng thành lẫn trẻ tuổi."[11] Spears đã làm việc với Robert "Mutt" Lange trong "Don't Let Me Be the Last to Know", nói với MTV News: "Bài hát này khi nghe qua thật trong sáng và tinh tế. Đây là một trong những bản nhạc sẽ thu hút mọi người" và nói thêm: "Tôi nghĩ họ viết riêng bài hát này cho tôi, bởi vì nếu bạn thực sự nghe qua phần lời ... chúng giống như có sự liên hệ đến tôi, vì lời bài hát khá trẻ trung. Tôi không nghĩ Shania sẽ hát một số ca từ tôi đề cập đến."[11]

Oops!... I Did It Again mở đầu bằng bài hát chủ đề, nhận về nhiều sự so sánh với đĩa đơn đầu tay của cô, "...Baby One More Time" (1998), có đoạn bassline slap và pop, hợp âm tổng hợp và beat cơ học. Về mặt ca từ, bài hát nói về việc cô gái cảnh báo người yêu quá chủ động: "Oops, you think I'm in love / That I'm sent from above / I'm not that innocent."[b][12] Bài hát cũng được xen kẽ bằng một đoạn thoại, trong đó có một câu nói liên quan đến bộ phim Titanic (1997).[12] Bài hát thứ hai "Stronger" là một bản synthpop[13] đậm chất R&B,[11] với nội dung như một lời tuyên bố độc lập, trong đó cô gái rời bỏ người bạn trai coi cô như vật sở hữu.[14] Câu hát "My loneliness ain't killing me no more"[c] liên quan đến câu "My loneliness is killing me"[d] trong đĩa đơn đầu tay "...Baby One More Time".[11] Một bài hát khác mang hơi hướng R&B cũng như kết hợp với funk,[11] "Don't Go Knocking on My Door" nói về một cô gái tự tin tiến lên phía trước sau khi chia tay.[14] "(I Can't Get No) Satisfaction" bắt đầu bằng tiếng gảy đàn guitar êm ái và những tiếng thủ thỉ đầy hơi thở, cho đến khi những tiếng bước chân vang lên, biến bài hát thành một bản urban.[15] Ngoài ra, bản hát lại dance-pop cũng lược bỏ câu hát cuối cùng của bản gốc và thay lời mới (từ "how white my shirts could be"[e] thành "how tight my skirt should be"[f]).[11][16] "[Thu âm bài hát] là ý tưởng của tôi", Spears nói: "Tôi kiểu như, 'Tôi thích bài hát này', và tôi nghĩ đây sẽ là sự kết hợp rất thú vị khi làm việc với [Jerkins] và thể hiện một bài hát sôi nổi như vậy."[6]

Bản nhạc thứ năm "Don't Let Me Be the Last to Know" được đồng sáng tác bởi ca sĩ kiêm nhạc sĩ country pop Shania Twain và người chồng lúc bấy giờ của cô là Lange, người cũng sản xuất bài hát.[11] Đây là một bản ballad với phần riff đàn phím mượt mà và cách sản xuất tạo cảm giác xa hoa đặc trưng của Lange, trong đó Spears thử nghiệm một chút "cách hát đồng quê" khi cô cầu xin người yêu tiết lộ cảm xúc của anh ấy: "My friends say you're into me ... but I need to hear it straight from you".[g][11] "What U See (Is What U Get)" nói lên cảm giác muốn được tôn trọng bằng cách chê trách người yêu hay ghen,[14] trong khi "Lucky" là câu chuyện đau lòng về sự cô đơn của một ngôi sao Hollywood mới nổi, chứng minh rằng danh tiếng có thể vô nghĩa: "If there's nothing missing in my life/Then why do these tears come at night?".[h][13][14] "Tình cảm trường học" là nội dung chủ đề của "One Kiss from You",[14] một bài hát theo phong cách reggae và phần lời nói về cảm giác và sự nhanh chóng khi yêu,[17] trong đó cô gái thì thầm rằng chỉ sau một nụ hôn, cô có thể nhìn thấy toàn bộ tương lai của mình với người yêu.[18] Bản ballad "Where Are You Now" nói về việc muốn biết người yêu cũ đang ở đâu và đã làm gì, để nhân vật chính có thể để họ ra đi và kết thúc mọi thứ.[19] Những câu hát trong bản Europop "Can't Make You Love Me" chỉ ra rằng xe hơi sang trọng và tiền bạc không là gì so với tình yêu đích thực,[14][15] khi Spears hát: "I'm just a girl with a crush on you."[i][15] Bản nhạc nhịp độ trung bình với tiếng synth hỗ trợ "When Your Eyes Say It", được viết bởi nhạc sĩ Diane Warren, kết hợp dàn dây với nhịp điệu hip hop,[11] trong khi Spears ra mắt sáng tác của riêng mình với bản ballad "Dear Diary", mà cô xem như tự truyện. Trong bài hát, nữ ca sĩ hát về việc muốn trở nên "hơn cả tình bạn" với một chàng trai.[11]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối năm 1999, Spears quảng bá cho Oops!... I Did It Again lúc bấy giờ chưa phát hành ở Châu Âu, xuất hiện trên Smash Hits ở Vương quốc Anh.[20] Tại Ý, cô thực hiện một bài phỏng vấn ngắn trên chương trình truyền hình TRL Italy vào đầu năm 2000.[20] Tại Úc, Spears xuất hiện trên Russell Gilbert LiveThe House of Hits.[20] Tại Hoa Kỳ, Spears bắt đầu chuyến lưu diễn (You Drive Me) Crazy Tour vào ngày 8 tháng 3, và được kết thúc bằng buổi hòa nhạc miễn phí tại Honolulu, Hawaii vào ngày 24 tháng 4, sau đó được phát sóng trên Fox như là chương trình truyền hình đặc biệt mang tên Britney Spears in Hawaii.[21] Tại Nhật Bản, Spears tổ chức một sự kiện báo chí tại Kokusai Forum Hall ở Tokyo vào ngày 2 tháng 5, và Oops!... I Did It Again được phát hành vào ngày hôm sau.[22] Spears có màn trình diễn bất ngờ tại Paris vào ngày 6 tháng 5.[23] Sau đó, Spears tham gia phỏng vấn trên Late Night with Conan O'Brien vào ngày 10 tháng 5,[20] dẫn chương trình và trình diễn trên Saturday Night Live vào ngày 13 tháng 5, và xuất hiện trên The Rosie O'Donnell Show hai ngày sau đó.[24] Ngày 14 tháng 5, nữ ca sĩ xuất hiện tại trường quay của MTV tại Quảng trường Thời Đại trong hai giờ cho chương trình "Britney Live" và tổ chức một buổi nghe nhạc hậu Total Request Live mang tên "Britney's First Listen" vào ngày 16 tháng 5, ngày Oops!... I Did It Again được phát hành tại Hoa Kỳ.[25] Cô cũng trình diễn trên The Tonight Show with Jay Leno vào ngày 23 tháng 5,[26] và xuất hiện trong 25 Under 25 của Teen People vào ngày 26 tháng 5.[24]

Để tiếp tục quảng bá cho Oops!... I Did It Again, Spears bắt tay thực hiện chuyến lưu diễn Oops!... I Did It Again Tour, dự kiến bắt đầu vào ngày 15 tháng 6 nhưng bắt đầu năm ngày sau đó, đi qua Bắc Mỹ vào mùa hè và Châu Âu vào mùa thu, trở thành chuyến lưu diễn châu Âu đầu tiên của Spears.[27] Vào ngày 24 tháng 6, Spears xuất hiện trong một chiến dịch quảng cáo trên báo in và truyền hình cho dòng dầu gội Herbal Essences của Clairol.[28] Spears còn thu âm một bài hát cho thương hiệu, có tựa đề "I've Got the Urge to Herbal", và được sử dụng cho những chiến dịch quảng bá trên đài phát thanh dài 60 giây và là một phần của video giới thiệu trước buổi hòa nhạc của chuyến lưu diễn, vốn được tài trợ bởi Herbal Essences.[28] Trong chuyến lưu diễn, Spears tiếp tục xuất hiện và biểu diễn trên truyền hình để quảng bá album. Cô trình diễn "Oops!... I Did It Again" và "Lucky" trên All Access: Backstage with Britney của MTV, phát sóng ngày 19 tháng 7.[20] Vào ngày 7 tháng 9, tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2000 ở Thành phố New York tại Radio City Music Hall, Spears tạo nên một màn trình diễn đáng nhớ,[29] trong đó nữ ca sĩ thể hiện bản hát lại "(I Can't Get No) Satisfaction" (1965) của The Rolling Stones và "Oops!... I Did It Again". Bắt đầu màn trình diễn trong bộ vest đen, Spears gây sốc cho khán giả và giới truyền thông khi xé toạc bộ vest để lộ ra một bộ trang phục màu da hở hang với hàng trăm viên pha lê Swarovski được đính lên đầy tính toán.[30] Tại Tây Ban Nha, cô được phỏng vấn trên El Rayo, phát sóng ngày 8 tháng 9.[20] Cô trình diễn "Stronger" tại giải thưởng âm nhạc Radio vào ngày 4 tháng 11,[31] tại giải thưởng M6 vào ngày 17 tháng 11,[32]giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2001 vào ngày 8 tháng 1 năm 2001.[33] Cô trình diễn tại Rock in Rio ở Brazil vào ngày 18 tháng 1, đứng chung sân khấu chính với NSYNC.[34]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Billboard, Oops!... I Did It Again là một trong 15 album có thành tích tốt nhất thế kỷ 21 nhưng không có đĩa đơn nào đạt vị trí số một trên Billboard Hot 100 tính đến năm 2022; Bản hit duy nhất lọt vào top 10 của album là đĩa đơn chủ đạo "Oops!... I Did It Again" , đạt vị trí thứ chín.[35] So với thành công vang dội của đĩa đơn đầu tay "...Baby One More Time", Jive Records nhìn nhận "Oops!... I Did It Again" là một sự thất vọng nhỏ. Bài hát đứng đầu bảng xếp hạng Mainstream Top 40,[36] nắm giữ kỷ lục về số lượt bổ sung trên đài phát thanh nhiều nhất trong một ngày. "Oops!... I Did It Again" đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Bỉ, Canada, Ý, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Ba Lan, Romania, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh.[37] Video ca nhạc cho "Oops!... I Did It Again" bao gồm những cảnh Spears trên sao Hỏa với bộ trang phục đỏ bó sát mang tính biểu tượng về sau; Cô được một phi hành gia người Mỹ đến thăm, người trao cho cô viên ngọc hư cấu Trái tim của Đại dương, mà Rose đã ném xuống biển ở phần cuối của Titanic (1997).[38]

"Lucky" được chọn làm đĩa đơn thứ hai từ Oops!... I Did It Again vào ngày 25 tháng 7 năm 2000 và nhận được phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ coi đây là một trong những tác phẩm hay nhất của album. Về mặt thương mại, "Lucky" đứng đầu bảng xếp hạng ở Áo, Đức, Thụy Điển và Thụy Sĩ, đồng thời đạt vị trí thứ năm trên UK Singles Chart.[39] Tại Hoa Kỳ, "Lucky" chỉ đạt vị trí thứ 23 trên Billboard Hot 100 và thứ chín trên Mainstream Top 40.[36][40] Spears hóa thân thành người kể chuyện và một nữ diễn viên tên Lucky cho video ca nhạc của bài hát, nhằm khắc họa một ngôi sao điện ảnh u sầu và trải qua nhiều mâu thuẫn nội tâm trước sự nổi tiếng.[41]

"Stronger" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba từ Oops!... I Did It Again vào ngày 31 tháng 10 năm 2000. Đĩa đơn trở thành tác phẩm có thứ hạng cao thứ hai của album tại Hoa Kỳ, đạt vị trí thứ 11 trên Billboard Hot 100 và đứng đầu bảng xếp hạng Hot Singles Sales.[40] "Stronger" đạt vị trí thứ bảy trên UK Singles Chart.[42] Video ca nhạc của bài hát khắc họa việc Spears bắt quả tang bạn trai lừa dối cô tại một hộp đêm bàn xoay mang tính chất tương lai, sau đó lái xe bỏ đi, gặp tai nạn và hát dưới mưa,[41] trong khi phân cảnh nhảy với ghế trong video được lấy cảm hứng từ video ca nhạc "The Pleasure Principle" của Janet Jackson.[43]

"Don't Let Me Be the Last to Know" được phát hành như đĩa đơn thứ tư và cũng là cuối cùng của album vào ngày 12 tháng 3 năm 2001. Tại Hoa Kỳ, bài hát đạt thành tích dưới sự kỳ vọng, không thể lọt vào bảng xếp hạng Billboard. Tuy nhiên, bài hát đạt được thành công ở châu Âu, đứng đầu ở Rumani và lọt vào top 10 ở Áo, Ba Lan và Thụy Sĩ, trong khi bỏ lỡ top 10 ở Đức, Ireland, Thụy Điển và Vương quốc Anh, đạt vị trí thứ 12 ở tất cả thị trường trên.[44] Video ca nhạc cho "Don't Let Me Be the Last to Know" lúc bấy giờ bị coi là quá gợi cảm, trong đó Spears có nhiều cảnh yêu đương với bạn trai của cô, do người mẫu Pháp Brice Durand thủ vai.[45]

Tiếp nhận chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic72/100[46]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[9]
The Austin Chronicle[47]
Christgau's Consumer Guide(choice cut)[48]
Entertainment WeeklyB[15]
Dotmusic8/10[49]
Los Angeles Daily News[50]
NME8/10[13]
Rolling Stone[16]
Slant Magazine[51]
Sonic.net[52]

Tại Metacritic, chuyên trang thống kê điểm trung bình từ những bài đánh giá chuyên môn của các nhà phê bình chính thống, Oops!... I Did It Again nhận được 72 trên 100 điểm dựa trên dựa trên 12 bài đánh giá, đông nghĩa với "đánh giá nhìn chung là tích cực".[53] Đánh giá album 4/5 sao, Stephen Thomas Erlewine của AllMusic chỉ ra rằng album "có sự kết hợp giữa những bản ballad tình cảm ngọt ngào và dance-pop đáng yêu đã tạo nên 'One More Time'," nhưng cũng nhận xét rằng, "Rất may, lần này cô và đội ngũ sản xuất của mình không chỉ sở hữu một loạt bài hát có tổng thể mạnh mẽ hơn, mà đôi khi họ còn bị cuốn theo phong cách thẩm mỹ chim ác, [...] mang lại nét riêng cho album, tách biệt với những bản dance-pop và ballad được trau chuốt kỹ lưỡng đóng vai trò là trung tâm của album. Cuối cùng, chính điều này làm cho album trở nên thú vị và thỏa mãn người nghe."[9] Billboard viết rằng "'Oops!...' cho thấy cô đang phát triển một khía cạnh tâm hồn và chiều sâu cảm xúc mà không phải dựa vào những nốt cao gây vỡ kính," khen ngợi album vì liên tục đưa Spears vào vai một người phụ nữ trẻ đang tìm kiếm sức mạnh bên trong mình—và đó là một thông điệp tuyệt vời để truyền tải đến khán giả đa cảm."[10] David Browne của Entertainment Weekly xếp hạng B cho album, viết rằng đĩa nhạc "một lần nữa nhắc nhở chúng ta rằng nhạc pop mới có thể là một luồng không khí mát mẻ trong căn phòng ngột ngạt."[15]

Rob Sheffield của Rolling Stone xếp hạng 3.5 trên 5 sao cho album, gọi album là "miếng pho mát tuyệt vời của nhạc pop, với những đoạn hook hấp dẫn hơn nhiều so với 'N Sync hoặc BSB", đồng thời chia sẻ rằng "điều tuyệt vời của Oops!, dưới bề mặt phô mai, là sự phức tạp, khốc liệt và hết sức đáng sợ, khiến cô trở thành một đứa trẻ thực sự của nhạc rock & roll."[16] Một tác giả của NME báo cáo rằng "cô ấy là sự hoàn hảo của nhạc pop đương đại được hiện thực hóa dưới hình dạng gần giống con người", nhận xét rằng "cô đã làm được điều đó một lần nữa."[13] Lennat Mak của MTV Asia gọi đây là "album thứ hai xuất sắc", viết rằng Spears "được trang bị vẻ ngoài trưởng thành và đầy dặn hơn của một ngôi sao nhạc pop, những bài hát mạnh mẽ và bắt tai hơn, và tất nhiên, được xuất hiện rộng rãi trên các phương tiện truyền thông."[54] Andy Battaglia của Salon gọi đây là "một kiệt tác không phải vì thông điệp album mà đến từ cách những quy ước của nhạc pop tiêu chuẩn được áp dụng."[55]

Trang web The A.V. Club đưa ra quan điểm trái chiều, gọi album "nhạt nhẽo như miếng pho mát dư thừa, tự tái chế ở mọi góc độ bằng việc thu hút sáng tác từ những tên tuổi thiếu chiều sâu như Diane Warren và những người Thụy Điển."[56] Nhiều đánh giá tiêu cực cho rằng album thiếu chiều sâu. Los Angeles Daily News gọi album là "nông cạn một cách rõ ràng" trong khi Slant Magazine viết rằng album là "thứ rác rưởi dùng một lần được xử lý chặt chẽ, nhưng Spears thậm chí còn không đủ cá tính để cứu vãn điều đó."[50][51]

Thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đề cử cho Giải thưởng Kết quả
2000 Giải Artist Direct[57] CD Turn-It-Up được yêu thích Đề cử
2000 Giải thưởng Âm nhạc Billboard[58][59] Doanh số Một tuần Lớn nhất của một Nghệ sĩ Nữ Đoạt giải
Nghệ sĩ Album của năm Đoạt giải
2001 Giải thưởng Âm nhạc Mỹ[60] Album Pop/Rock được yêu thích nhất Đề cử
2001 giải Grammy[61] Album giọng pop xuất sắc nhất Đề cử
2001 Giải Juno[62] Album bán chạy nhất (Quốc tế và Trong nước) Đề cử
2001 Kỷ lục Guinness Thế giới[63] Album tiêu thụ nhanh nhất của một nghệ sĩ thiếu niên hát đơn Đoạt giải

Thành tích thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Hoa Kỳ, Oops!... I Did It Again bán được 500,000 bản trong ngày đầu phát hành.[64] Album ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200, với doanh số tuần đầu đạt 1,319,193 bản,[65][66][67] trở thành album tiêu thụ nhanh nhất của một nữ nghệ sĩ kể từ khi Nielsen SoundScan bắt đầu theo dõi doanh số tiêu thụ vào năm 1991.[68] Ngoài ra, Spears cũng giữ kỷ lục là nữ nghệ sĩ có doanh số tuần đầu cao nhất.[69] Kỷ lục này tồn tại trong 15 năm, và chỉ bị vượt qua vào tháng 11 năm 2015 bởi album 25 của Adele, với 3.38 triệu album được bán ra tại Hoa Kỳ trong tuần đầu.[70] Album rơi xuống vị trí á quân trong tuần thứ hai, với thêm 612,000 bản được bán ra,[71] sau đó giữ vị trí này trong 15 tuần liên tiếp.[72][73] Đến tuần thứ năm ra mắt, Oops!... I Did It Again đã bán được hơn ba triệu bản và vượt qua con số năm triệu bản vào tháng 8.[74] Vào tuần thứ 17 trên bảng xếp hạng,[75] album được chứng nhận bảy đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) cho bảy triệu bản được tiêu thụ.[76][77] Album trải qua 84 tuần trên Billboard 200, 31 tuần trên Bảng xếp hạng Album Canada và hai tuần trên Catalog Albums.[78] Oops!... I Did It Again ra mắt ở vị trí thứ 82 trên Top 100 Album Châu Âu, và nhanh chóng đạt vị trí số một;[79] album đã bán được hơn bốn triệu bản ở châu Âu, được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim bởi Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IPFI).[80] Oops!... I Did It Again đạt vị trí thứ hai trên Bảng xếp hạng Album Vương quốc Anh,[37] bán được 88,000 bản trong tuần đầu phát hành; đĩa hát trụ vững ở top 5 trong bốn tuần. Album ra mắt ở vị trí số một tại Canada, bán được 95,275 bản trong tuần đầu.[81]

Oops!... I Did It Again đứng đầu Bảng xếp hạng Album Pháp[82]Top 100 Offizielle của Đức, đồng thời được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi Ngành Công nghiệp ghi âm Anh (BPI),[83] đĩa Vàng kép bởi Tổ chức Xuất bản Âm thanh Quốc gia Pháp (SNEP)[84] và ba đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Âm nhạc Liên bang Đức (BVMI)[85] với lượng đơn hàng đến nhà bán lẻ lần lượt đạt 900,000 bản, 200,000 bản và 900,000 bản. Ngoài ra, album còn ra mắt ở vị trí thứ hai trên Bảng xếp hạng Album Úc và có mười tuần trong top 20,[86] và trở thành album bán chạy thứ 14 trong năm 2000 và được chứng nhận hai đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc (ARIA) vào năm sau khi được vận chuyển 140,000 bản đến các nhà bán lẻ.[87][88] Oops!... I Did It Again mở màn ở vị trí thứ ba trên Bảng xếp hạng Album New Zealand và được chứng nhận Vàng chỉ sau một tuần. [89] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm New Zealand (RIANZ) cuối cùng đã chứng nhận album hai đĩa Bạch kim.[90] Oops!... I Did It Again trở thành album bán chạy thứ ba năm 2000 tại Hoa Kỳ, bán được 7,893,544 bản theo Nielsen SoundScan[91] và là album có thành tích tốt thứ tư theo Billboard cuối năm 2000.[92] Vào ngày 24 tháng 1 năm 2005, album được chứng nhận đĩa Kim cương bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[93][94] Ngoài ra, album còn đứng ở vị trí thứ 27 trong danh sách album bán chạy nhất mọi thời đại của BMG Music Club với 1.21 triệu bản, xếp sau The Woman in Me của Shania Twain (1.24 triệu) và Nevermind của Nirvana (1.24 triệu).[95] Tính đến tháng 7 năm 2009, album bán được 9,184,000 bản tại Hoa Kỳ, không bao gồm các bản được bán qua câu lạc bộ, chẳng hạn như BMG Music Service.[96] Trên toàn thế giới, Oops!... I Did It Again bán được 2.5 triệu bản trong tuần đầu (doanh số tuần đầu cao thứ hai của một nghệ sĩ nữ trên toàn cầu) và bán được 15 triệu bản vào cuối năm. Đây là album bán chạy nhất của nghệ sĩ nữ và là album bán chạy thứ 3 năm 2000.[97] Album bán được 20 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.[98]

Tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhạc sĩ Michael Cottril và Lawrence Wnukowski đã đệ đơn kiện Spears, Zomba Recording Corporation, Jive Records, Wright Entertainment Group và BMG Music Publishing về vấn đề bản quyền, cho rằng "What U See (Is What U Get)" và "Can't Make You Love Me" của Spears "gần như giống hệt" với một trong những bài hát của họ. Cottrill và Wnukowski tuyên bố rằng họ là tác giả, thu âm và đăng ký bản quyền một bài hát có tên "What You See Is What You Get" vào năm 1999 cho một trong những đại diện của Spears để xem xét cho một album trong tương lai, mặc dù sau đó đã bị từ chối.[99] Vụ việc về sau bị bác bỏ khi phán quyết cho rằng họ thiếu bằng chứng đầy đủ và "không có đủ điểm tương đồng giữa hai bài hát để chứng minh vấn đề vi phạm bản quyền."[100]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Oops!... I Did It Again – Phiên bản tại Bắc Mĩ[4]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Oops!... I Did It Again"
  • Martin
  • Rami
3:31
2."Stronger"
  • Martin
  • Rami
  • Martin
  • Rami
3:23
3."Don't Go Knockin' on My Door"
  • Jake
  • Rami
3:43
4."(I Can't Get No) Satisfaction"Rodney Jerkins4:28
5."Don't Let Me Be the Last to Know"Lange3:50
6."What U See (Is What U Get)"
  • Magnusson
  • Kreuger
  • Rami
3:36
7."Lucky"
  • Martin
  • Rami
  • Kronlund
  • Martin
  • Rami
3:25
8."One Kiss from You"Steve Lunt
  • Lunt
  • Larry "Rock" Campbell
3:23
9."Where Are You Now"
  • Martin
  • Rami
4:39
10."Can't Make You Love Me"
  • Lundin
  • Jake
3:16
11."When Your Eyes Say It"Diane Warren
  • Lunt
  • Robert "Esmail" Jazayeri
  • Paul Umbach[a]
4:30
12."Dear Diary"
  • Timmy Allen
  • Barry J. Eastmond
2:46
Tổng thời lượng:44:37
Oops!... I Did It Again – Phiên bản quốc tế[101]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
11."When Your Eyes Say It"Warren
  • Lunt
  • Jazayeri
  • Umbach[a]
4:06
12."Girl in the Mirror"Elofsson
  • Magnusson
  • Kreuger
4:06
13."Dear Diary"
  • Spears
  • Blume
  • Wilde
  • Allen
  • Eastmond
2:46
Tổng thời lượng:48:24
Oops!... I Did It Again – Phiên bản tại Châu Á[102]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
11."When Your Eyes Say It"Warren
  • Lunt
  • Jazayeri
  • Umbach[a]
4:06
12."Girl in the Mirror"Elofsson
  • Magnusson
  • Kreuger
3:36
13."You Got It All"Rupert HolmesEric Foster White4:40
14."Dear Diary"
  • Spears
  • Blume
  • Wilde
  • Allen
  • Eastmond
2:46
Tổng thời lượng:52:33
Oops!... I Did It Again – Phiên bản tại Nhật Bản, Úc, Mexico, châu Á và bản đặc biệt tại Vương quốc Anh[103][104]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
11."When Your Eyes Say It"Warren
  • Lunt
  • Jazayeri
  • Umbach[a]
4:06
12."Girl in the Mirror"Elofsson
  • Magnusson
  • Kreuger
3:36
13."You Got It All"HolmesWhite4:10
14."Heart"
  • George Teren
  • Wilde
  • Lunt
  • Campbell
3:31
15."Dear Diary"
  • Spears
  • Blume
  • Wilde
  • Allen
  • Eastmond
2:46
Tổng thời lượng:55:34
Oops!... I Did It Again – Phiên bản đặc biệt tại Úc (CD tăng cường)[105]
STTNhan đềThời lượng
1."Don't Let Me Be the Last to Know" (bản album)3:50
2."Don't Let Me Be the Last to Know" (Hex Hector Radio Mix)4:01
3."Don't Let Me Be the Last to Know" (Hex Hector Club Mix)10:12
4."Stronger" (MacQuayle Mx Show Edit)5:21
5."Stronger" (Pablo La Rosa's Tranceformation)7:21
6."Oops!... I Did It Again" (bản video)4:11
7."Lucky" (bản video)4:07
8."Stronger" (bản video)3:37
9."Don't Let Me Be the Last to Know" (bản video)3:51
Tổng thời lượng:30:52
Oops!... I Did It Again – Phiên bản đặc biệt tại châu Á (VCD tăng cường)[106]
STTNhan đềThời lượng
1."Oops!... I Did It Again" (Video)4:20
2."Lucky" (Video)4:14
3."Stronger" (Video)3:47
4."Oops!... I Did It Again" (Karaoke)4:17
5."Lucky" (Karaoke)4:18
6."Stronger" (Karaoke)3:46
Tổng thời lượng:25:25
Chú thích
  • ^a nghĩa là sản xuất phần giọng hát

Thành phần thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Oops!... I Did It Again.[4]

  • Gloria Agostini – hạc cầm
  • Amahid Ajemian – vĩ cầm
  • Sanford Allen – vĩ cầm
  • Timmy Allen – sản xuất
  • John Amatiello – kỹ sư
  • Therese Ancker – giọng nền
  • Darryl Anthony – giọng nền
  • Stephanie Baer – giọng nền, vĩ cầm trầm
  • Julien Barber – vĩ cầm trầm
  • Sandra Billingslea – vĩ cầm
  • Charlotte Björkman – giọng nền
  • Elan Bongiorno – trang điểm
  • Alfred Bosco – hỗ trợ kỹ sư
  • Alfred V. Brown – dàn nhạc, vĩ cầm trầm
  • Bobby Brown – hỗ trợ kỹ sư
  • Larry "Rock" Campbell – bass, lập trình trống, guitar, sản xuất
  • Johan Carlberg – guitar
  • Cory Churko – lập trình
  • Kevin Churko – lập trình
  • Tom Coyne – master
  • Marji Danilow – bass
  • Tim Donovan – kỹ sư
  • Barry J. Eastmond – chỉ huy dàn nhạc, kỹ sư, đàn phím, cải biên dàn nhạc, piano, sản xuất
  • Michel Gallone – kỹ sư, kỹ sư phối khí
  • Winterton Garvey – vĩ cầm
  • Eric Gast – kỹ sư
  • Dan Gellert – kỹ sư
  • Stephen George – kỹ sư phối khí
  • Nigel Green – phối khí
  • Nikki Gregoroff – giọng nền
  • Joyce Hammann – vĩ cầm
  • Nana Hedin – giọng nền
  • Richard Henrickson – nhạc trưởng, vĩ cầm
  • Hayley Hill – nhà tạo mẫu
  • Ashley Horne – vĩ cầm
  • Stanley Hunte – vĩ cầm
  • Regis Iandiorio – vĩ cầm
  • Jake – đàn phím, kỹ sư phối khí, sản xuất, lập trình
  • Robert "Esmail" Jazayeri – lập trình trống, đàn phím, sản xuất
  • Rodney Jerkins – kỹ sư, kỹ sư phối khí, sản xuất, cải biên giọng hát
  • Kali – tạo mẫu tóc
  • Olivia Koppell – vĩ cầm trầm
  • David Kreuger – đàn phím, kỹ sư phối khí, sản xuất, lập trình
  • Robert John "Mutt" Lange – sản xuất
  • Jeanne LeBlanc – cello
  • Jesse Levy – cello
  • Thomas Lindberg – bass
  • Kristian Lundin – đàn phím, kỹ sư phối khí, sản xuất, lập trình
  • Steve Lunt – A&R, sản xuất, sáng tác, cải biên dàn dây
  • Margaret Magill – vĩ cầm
  • Per Magnusson – đàn phím, kỹ sư phối khí, sản xuất, lập trình
  • Audrey Martells – giọng nền
  • Max Martin – đàn phím, kỹ sư phối khí, sản xuất, lập trình, giọng hát
  • Harvey Mason, Jr. – kỹ sư
  • Harvey Mason, Sr. – biên tập
  • Charles McCrorey – kỹ sư, hỗ trợ kỹ sư
  • William Meade – phối hợp dàn dây
  • Richard Meyer – lập trình
  • Kermit Moore – cello
  • Eugene J. Moye – cello
  • Jackie Murphy – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế
  • Esbjörn Öhrwall – guitar
  • Jeanette Olsson – giọng nền
  • Gene Orloff – vĩ cầm
  • Flip Osman – hỗ trợ kỹ sư
  • Nora Payne – giọng nền
  • Marion Pinhiero – vĩ cầm
  • Jon Ragel – nhiếp ảnh
  • Rami – đàn phím, kỹ sư phối khí, sản xuất, lập trình
  • Maxine Roach – vĩ cầm trầm
  • Anthony Ruotolo – hỗ trợ kỹ sư
  • Mark Seliger – nhiếp ảnh
  • Dexter Simmons – kỹ sư phối khí
  • Jeanette Söderholm – giọng nền
  • Britney Spears – lên ý tưởng, sáng tác, giọng hát
  • Shane Stoneback – hỗ trợ kỹ sư
  • Judith Sugarman – bass
  • Marti Sweet – vĩ cầm
  • Gerald Tarack – vĩ cầm
  • Chris Tergesen – kỹ sư dàn dây
  • Michael Thompson – guitar
  • Chris Trevett – kỹ sư, kỹ sư phối khí, kỹ sư giọng hát
  • Michael Tucker – kỹ sư giọng hát
  • Andres Von Hofsten – giọng nền
  • Belinda Whitney-Barratt – vĩ cầm
  • Clayton Wood – hỗ trợ kỹ sư
  • Kent Wood – đàn phím
  • Nina Woodford – giọng nền
  • Johnny Wright – quản lý
  • Mona Yacoub – giọng nền
  • Harry Zaratzian – vĩ cầm trầm
  • Xin Zhao – vĩ cầm

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Argentina (CAPIF)[173] Bạch kim 60.000^
Úc (ARIA)[174] 3× Bạch kim 210.000^
Áo (IFPI Áo)[175] 2× Bạch kim 100.000*
Bỉ (BEA)[176] 3× Bạch kim 150.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[178] Vàng 250,000[177]
Canada (Music Canada)[180] 5× Bạch kim 710,044[179]
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[182] 47,621[181]
Phần Lan (Musiikkituottajat)[183] Bạch kim 54,274[183]
Pháp (SNEP)[184] Bạch kim 300.000*
Đức (BVMI)[185] 3× Bạch kim 1.500.000^
Hungary (Mahasz)[186] Vàng 10.000^
Ý (FIMI)[188]
Doanh số năm 2000
100,000[187]
Nhật Bản (RIAJ)[189] Bạch kim 242,400[152]
Malaysia (RIM)[190] Bạch kim 25,000[190]
México (AMPROFON)[191] 2× Bạch kim 300.000^
Hà Lan (NVPI)[192] 2× Bạch kim 160.000^
New Zealand (RMNZ)[193] 2× Bạch kim 30.000^
Na Uy (IFPI)[194] Bạch kim 50.000*
Ba Lan (ZPAV)[195] Bạch kim 100.000*
Hàn Quốc (KMCA)[198] 263,068[196][197]
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[199] 2× Bạch kim 200.000^
Thụy Điển (GLF)[201] Bạch kim 130,000[200]
Thụy Sĩ (IFPI)[202] 2× Bạch kim 100.000^
Anh Quốc (BPI)[83] 3× Bạch kim 917,000[203]
Hoa Kỳ (RIAA)[205] Kim cương 10,411,000[j]
Uruguay (CUD)[206] Bạch kim 6.000^
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[80] 4× Bạch kim 4.000.000*
Toàn cầu 20,000,000[98]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Định dạng Phiên bản Hãng đĩa Ct.
Nhật 3 tháng 5, 2000 CD Tiêu chuẩn Avex Trax [207]
Úc 15 tháng 5, 2000 BMG
Đức [208]
Vương quốc Anh Jive
Canada 16 tháng 5, 2000 CD BMG [210]
Hoa Kỳ
  • Cassette
  • CD
Jive [211]
Vương quốc Anh 9 tháng 10, 2000 CD Đặc biệt [212]
Úc 23 tháng 3, 2001 CD+VCD BMG [108]
Hoa Kỳ 26 tháng 4, 2019 Đĩa than (Độc quyền tại Urban Outfitters) Tiêu chuẩn Legacy [213]
Nhiều 14 tháng 8, 2020 Đĩa than [214]
Hoa Kỳ Cassette (Độc quyền tại Urban Outfitters) [215]
Úc 31 tháng 3, 2023 Đĩa than (Màu Neon violet) Sony [216]
Đức [217]
Mexico [218]
Ba Lan [219]
Vương quốc Anh [220]
Hoa Kỳ Đĩa than (Màu đen) Legacy [221]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Walk on By" không được đưa vào danh sách cuối cùng của Oops!... I Did It Again, nhưng được phát hành làm đĩa đơn Mặt B cho đĩa đơn thứ ba "Stronger". Ca sĩ người Anh Gareth Gates sau đó hát lại "Walk on By" cho album phòng thu đầu tay của anh What My Heart Wants to Say (2002).
  2. ^ Tạm dịch: "Ôi thôi, bạn tưởng tôi đang yêu / Tưởng tôi được Trời ban xuống / Tôi đâu có ngây thơ đến thế"
  3. ^ Tạm dịch: "Sự cô đơn không thể giết tôi nữa"
  4. ^ Tạm dịch: "Sự cô đơn đang giết chết tôi"
  5. ^ Tạm dịch: "áo sơ mi của tôi có thể trắng đến mức nào"
  6. ^ Tạm dịch: "váy của tôi phải chật đến mức nào"
  7. ^ Tạm dịch: "Bạn bè của tôi nói rằng bạn thích tôi ... nhưng tôi cần nghe điều đó trực tiếp từ bạn".
  8. ^ Tạm dịch: "Nếu đời tôi chẳng thiếu thứ gì/Vậy tại sao những giọt nước mắt này lại rơi mỗi đêm?"
  9. ^ Tạm dịch: "Tôi chỉ là một cô gái có tình cảm với bạn"
  10. ^ Tính đến tháng 12 năm 2010, Oops!...I Did It Again đã bán được 9,201,000 bản tại Hoa Kỳ theo Nielsen SoundScan,[204] và thêm 1,210,000 copies bản được bán tại BMG Music Clubs.[95] Nielsen SoundScan không tính các bản sao được bán qua các câu lạc bộ như BMG Music Service vốn rất phổ biến trong những năm 1990.[96]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Moss, Corey (21 tháng 4 năm 2000). “Britney Spears Plans On Doing It Again – And Again”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2014.
  2. ^ britneyrewind (18 tháng 5 năm 2015). “Britney Spears Interview with Rosie o Donnell in 1999 (90s)”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2021.
  3. ^ a b Hermanson, William (7 tháng 1 năm 2000). “Britney Spears Readies A Funky New Album”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2012.
  4. ^ a b c Oops!... I Did It Again (ghi chú CD tại Mỹ). Britney Spears. JIVE Records. 2000. 01241-41704-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  5. ^ Ruggieri, Melissa (13 tháng 1 năm 2000). “Riffs”. Richmond Times.[liên kết hỏng]
  6. ^ a b Moss, Corey (23 tháng 2 năm 2000). “Britney Wants Older Fans To Get "Satisfaction". MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  7. ^ “Britney Ponders "Baby" Follow-Up”. MTV. 12 tháng 4 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  8. ^ Gardner, Elysa (16 tháng 5 năm 2000). “Britney, One More Time”. USA Today. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2000.
  9. ^ a b c Stephen Thomas Erlewine. “Oops!... I Did It Again — Britney Spears”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  10. ^ a b “Britney Spears: Oops!... I Did It Again”. Billboard. 20 tháng 5 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2000. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
  11. ^ a b c d e f g h i j Hiatt, Brian (10 tháng 5 năm 2000). “Britney Spears Brings Touches Of Stones, Shania Twain To Second LP”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
  12. ^ a b Hiatt, Brian (14 tháng 4 năm 2000). “Britney Spears Single Breaks Radio Record Set By 'N Sync”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
  13. ^ a b c d “Oops!... I Did It Again”. NME. 29 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  14. ^ a b c d e f “Britney Spears Oops! ... I Did It Again | Plugged In”. Plugged In (publication). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
  15. ^ a b c d e Browne, David (19 tháng 5 năm 2000). “Oops!... I Did It Again”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  16. ^ a b c Sheffield, Rob (9 tháng 6 năm 2004). “Oops...I Did It Again | Album Reviews”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  17. ^ “Britney Spears: Oops . . . ! I Did It Again! Album Review”. White Rabbit Mix. 7 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2014.
  18. ^ Maine, K (tháng 12 năm 2012). “Celebrate Britney Spears' Birthday With Her 10 Best Love Lyrics!”. Your Tango. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2014.
  19. ^ “Britney Spears – Where Are You Now Lyrics”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
  20. ^ a b c d e f “Britney Spears Filmography”. IMDb. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  21. ^ Rosen, Craig (24 tháng 4 năm 2000). “Britney Spears In Hawaii To Tape Tv Special”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  22. ^ Rosen, Craig (5 tháng 5 năm 2000). “Britney Spears Has A 'Heart To Heart' With Mom”. Yahoo! Music News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  23. ^ Rosen, Craig (9 tháng 5 năm 2000). “Britney Spears Debuts At Number One In UK & Talks UK Tour”. Yahoo! Music News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  24. ^ a b Rosen, Craig (7 tháng 4 năm 2000). “Britney Spears Postpones Tennessee Tour Date”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  25. ^ Manning, Kara (9 tháng 5 năm 2000). “Britney Spears On Working With "Mutt," Shania”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  26. ^ Rosen, Craig (1 tháng 5 năm 2000). “Britney Spears Hopes To One Day Perform With Madonna”. Yahoo! Music News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  27. ^ Basham, David (22 tháng 2 năm 2000). “Britney Spears Announces Summer Tour”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  28. ^ a b Patricia Winter Lauro (24 tháng 6 năm 2000). “ADVERTISING; Clairol joins forces with Britney Spears in an effort to sell more shampoo to teenagers”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2017.
  29. ^ MTV (7 tháng 9 năm 2000). “2000 MTV Video Music Awards”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.
  30. ^ Basham, David (7 tháng 9 năm 2000). “Britney, Eminem, 'NSYNC Get Wild, Weird For VMA Sets”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  31. ^ The 2000 Radio Music Awards (TV production). Ron de Moraes, Margo Romero (directors). Las Vegas, Nevada: ABC Entertainment. 4 tháng 11 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.Quản lý CS1: tham số others trong cite AV media (liên kết)
  32. ^ “Britney Spears at M6 Awards 2000”. setlist.fm. 17 tháng 11 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
  33. ^ “The 28th Annual American Music Awards”. ABC Entertainment. 8 tháng 1 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
  34. ^ “Big rockfest gets rollin' in Rio”. Deseret News. 31 tháng 1 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
  35. ^ Unterberger, Andrew (23 tháng 6 năm 2022). “15 of the Biggest 21st Century Albums That Never Scored a Hot 100 No. 1 Hit”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2022.
  36. ^ a b “Britney Spears Chart History (Pop Songs)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
  37. ^ a b The Official Charts Company (tháng 5 năm 2000). “UK Albums Chart”. Every Hit. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  38. ^ Corner, Lewis (17 tháng 8 năm 2012). “Britney Spears tweets Mars Curiosity 'Oops I Did It Again' music video”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  39. ^ The Official Charts Company (tháng 8 năm 2000). “UK Albums Chart”. Every Hit. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  40. ^ a b “Britney Spears Chart History (Hot 100)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
  41. ^ a b Boone, John (18 tháng 12 năm 2013). “The 13 Best Britney Spears Music Videos, Ranked”. E! Online. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  42. ^ The Official Charts Company (tháng 12 năm 2000). “UK Albums Chart”. Every Hit. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  43. ^ “Britney Spears' 10 Best Music Videos: Readers' Poll Results”. Billboard. 19 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  44. ^ The Official Charts Company (tháng 4 năm 2001). “UK Albums Chart”. Every Hit. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  45. ^ Slotek, Jim (2001). “Britney, A to Z”. Jam. Canadian Online Explorer. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2010.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  46. ^ “Oops!... I Did It Again by Britney Spears”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  47. ^ Gray, Christopher (13 tháng 10 năm 2000). “Britney Spears Oops... I Did It Again (Jive)”. The Austin Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.
  48. ^ “CG: Britney Spears”. Robert Christgau. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2011.
  49. ^ Man, Random (15 tháng 5 năm 2000). “BRITNEY SPEARS - 'OOPS...I DID IT AGAIN'. Dot Music. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  50. ^ a b Shuster, Fred (26 tháng 5 năm 2000). “Sound Check”. Los Angeles Daily News Archived at The Free Library. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
  51. ^ a b Cinquemani, Sal (6 tháng 10 năm 2001). “Britney Spears - Oops!...I Did It Again”. Slant Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  52. ^ John, Kevin (15 tháng 5 năm 2000). “Déjà Vu All Over Again”. Sonic.net. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
  53. ^ “Critic Reviews for Oops!... I Did It Again”. Metacritic. CNET Networks, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  54. ^ Mak, Lennat. “Britney Spears: Oops!... I Did It Again”. MTV Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
  55. ^ Battaglia, Andy (19 tháng 6 năm 2000). “Sharps & Flats”. Salon. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  56. ^ “Britney Spears: Oops!...I Did It Again”. The A.V. Club. 16 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  57. ^ “Your voted for your favorites - now find out who won!”. Event ArtistDirect. Artistdirect. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2001. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021.
  58. ^ “Britney Spears Biography”. Fox News. 31 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  59. ^ Zahlaway, Jon (6 tháng 12 năm 2000). “Sisqo Tops 2000 Billboard Music Awards Winner's List”. LiveDaily.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  60. ^ “28th American Music Awards”. Rock on the Net. 8 tháng 1 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2002. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  61. ^ Rosen, Craig (2 tháng 2 năm 2001). “Madonna & Britney Duet Called Off”. Yahoo! Music News. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  62. ^ Juno Awards and Nominations: Britney Spears. 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  63. ^ Folkard 2003, tr. 288
  64. ^ “Star Bursts”. The Wall Street Journal. 30 tháng 10 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2015.
  65. ^ Grein, Paul (30 tháng 10 năm 2012). “Week Ending Oct. 28, 2012. Albums: 1,208,000!”. Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  66. ^ “Britney's 'Circus' Debuts Atop Album Chart”. Billboard. 10 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008.
  67. ^ Skanse, Richard (25 tháng 5 năm 2005). “Oops!... She Sold 1.3 Million Albums”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2007.
  68. ^ Caulfield, Keith (30 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's 'Red' Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  69. ^ Rosen, Craig (31 tháng 12 năm 2000). “Flashback 2000: 'N Sync, Britney, Eminem, and Backstreet Boys Set Sales Records”. Yahoo! Music News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  70. ^ Caulfield, Keith (29 tháng 11 năm 2015). “Adele's '25' Official First Week U.S. Sales: 3.38 Million”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  71. ^ “Eminem Topples Britney In Debut-Heavy Week”. Billboard. 1 tháng 6 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2000. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  72. ^ “Nelly, Janet Hang On To Top Chart Spots”. Billboard. 24 tháng 8 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  73. ^ “Madonna Knocks On Janet's Door, Nelly Holds Fast”. Billboard. 31 tháng 8 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  74. ^ Mancini, Robert (9 tháng 8 năm 2000). “Britney, Nelly, Eminem Continue Chart Ride”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  75. ^ “Nelly, Madonna Hold On To No. 1 Spots”. Billboard. 14 tháng 9 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  76. ^ “Britney, Creed Taken Higher In RIAA Certs”. Billboard. 14 tháng 9 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  77. ^ Rosen, Craig (15 tháng 9 năm 2000). “It's Official: Britney Spears And Justin Timberlake An Item”. Yahoo! Music News. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  78. ^ Billboard.com (2000). “Oops!...I Did It Again Chart History”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  79. ^ “Sonique Hits No. 1 In Her Homeland”. Billboard. 30 tháng 5 năm 2000. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.[liên kết hỏng]
  80. ^ a b “IFPI Platinum Europe Awards – 2001”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế.
  81. ^ “Britney sells 1.4M in first week”. Jam!. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  82. ^ “French Albums Chart”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. 27 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  83. ^ a b “Chứng nhận album Anh Quốc – Britney Spears – Oops!... I Did It Again” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry.
  84. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – Oops!... I Did It Again” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  85. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Britney Spears; 'Oops ... I Did It Again')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  86. ^ “Australian Albums Chart”. Australian Recording Industry Association. 28 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  87. ^ “Australian Annual Chart”. Australian Recording Industry Association. 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  88. ^ Australian Recording Industry Association (2000). “Australian Certification”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  89. ^ “Chứng nhận album New Zealand – RIANZ Top 50 Albums – 25 June 2000” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  90. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Britney Spears – Oops I Did It Again” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  91. ^ “Audio/Video Revolution: Record Sales Up 4% in 2000 ? Despite Napster & MP3.com”. Avrev.com. 3 tháng 1 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  92. ^ “The Billboard 200 Year End Charts 2000”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2013.
  93. ^ Recording Industry Association of America (24 tháng 1 năm 2005). “US Certification”. Recording Industry Association of America. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  94. ^ “Britney's Debut Tips 14 Million Mark”. Billboard. 13 tháng 1 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  95. ^ a b David, Barry (18 tháng 2 năm 2003). “Shania, Backstreet, Britney, Eminem and Janet Top All-Time Sellers”. Music Industry News Network. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2003. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  96. ^ a b Caulfield, Keith (25 tháng 1 năm 2008). “Ask Billboard: 'Good' Is Not So Good”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  97. ^ Bickerdike, Jennifer Otter (19 tháng 7 năm 2022). Being Britney: Pieces of a Modern Icon (bằng tiếng Anh). Permuted Press. ISBN 978-1-63758-481-1.
  98. ^ a b “Britney Spears and sons recreate 'Oops! I Did It Again' album cover”. Business Standard (bằng tiếng Anh). 6 tháng 7 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2019.
  99. ^ “Britney Sued Over Songs”. BBC News. 12 tháng 6 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.
  100. ^ “Britney's Song All Her Own, Says Judge – Britney Spears”. People. 28 tháng 5 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  101. ^ Oops!... I Did It Again (ghi chú CD quốc tế). Britney Spears. JIVE Records. 2000. 9220392.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  102. ^ Oops!... I Did It Again (ghi chú CD tại châu Á). Britney Spears. JIVE Records. 2000. 9220422.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  103. ^ Oops!... I Did It Again (ghi chú CD tại Nhật). Britney Spears. JIVE Records. 2000. ZJCI-10121.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  104. ^ Oops!... I Did It Again (ghi chú CD bản Đặc biệt tại Anh quốc). Britney Spears. JIVE Records. 2000. 9221042.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  105. ^ Oops!... I Did It Again (ghi chú CD bản Đặc biệt tại Úc). Britney Spears. JIVE Records. 2000. 9220432SE.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  106. ^ Oops!... I Did It Again (ghi chú CD bản Đặc biệt tại châu Á). Britney Spears. JIVE Records. 2000. 9220432SE.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  107. ^ a b “Los Discos Más Vendicos En Iberoamérica y Estados Unidos”. El Siglo de Torreón (bằng tiếng Tây Ban Nha). 29 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2023.
  108. ^ a b c "Australiancharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  109. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  110. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  111. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  112. ^ “Top Albums/CDs – Volume 71, No. 4, May 29, 2000”. RPM. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2011.
  113. ^ “Top national sellers” (PDF). Music & Media. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  114. ^ “Hits of the World: Denmark (IFPI/Nielsen Marketing Research) 06/22/00”. Billboard. Nielsen Business Media. 112 (24): 59. 10 tháng 6 năm 2000. ISSN 0006-2510.
  115. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  116. ^ “European Top 100 Albums” (PDF). Music & Media. 17 (24): 12. 10 tháng 6 năm 2000. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2023.
  117. ^ "Britney Spears: Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập 2013-08-27.
  118. ^ "Lescharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  119. ^ "Offiziellecharts.de – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts.
  120. ^ “Top national sellers” (PDF). Music & Media. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015.
  121. ^ “Hungarian Albums Chart”. MAHASZ. 19 tháng 6 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  122. ^ “Tonlist Top 30” (bằng tiếng Iceland). Morgunblaðið. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2023.
  123. ^ “GFK Album Chart Archives Ireland”. GFK Chart-Track. IRMA. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  124. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 2014-06-23.
  125. ^ “ウップス!...アイ・ディド・イット・アゲイン” [Oops!... I Did It Again] (bằng tiếng Nhật). Japan: Oricon. 3 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2023.
  126. ^ “Hits of the world” (PDF). Billboard. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015.
  127. ^ "Charts.nz – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập January 17, 2023.
  128. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập January 17, 2023.
  129. ^ “OLiS – sprzedaż w okresie 23.10. - 29 October 2000”. ZPAV. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.
  130. ^ “Top 10 Albums”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2015.
  131. ^ “Scottish Albums Chart”. Official Charts Company. May 15–20, 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2012.
  132. ^ “TOP 10 ALBUMS OF THE WEEK”. The Straits Times. 20 tháng 5 năm 2000. tr. 8. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023. As compiled by SPVA from sales figures from record companies, retailers and radio station charts.
  133. ^ “Hitparáda IFPI slovensko (Obdobie 26.3.-1.4.2001)” (bằng tiếng Slovak). International Federation of the Phonographic Industry — Slovakia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2001. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023.
  134. ^ "Spanishcharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập January 17, 2023.
  135. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập January 17, 2023.
  136. ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – Oops!... I Did It Again" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập January 17, 2023.
  137. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  138. ^ "Official Independent Albums Chart Top 50" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập July 25, 2023.
  139. ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  140. ^ “2000.6월 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2022.
  141. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 2000”. ARIA Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  142. ^ “Jahreshitparade 2000”. Ö3 Austria. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  143. ^ “Jaaroverzichten 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  144. ^ “Rapports Annuels 2000” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  145. ^ “Canada's Top 200 Albums of 2000”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2022.
  146. ^ “Chart of the Year 2000”. Mogens Nielsen. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  147. ^ “Jaaroverzichten - Album 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  148. ^ “The Year in Music: 2000” (PDF). Billboard. 30 tháng 12 năm 2000. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  149. ^ “Myydyimmät ulkomaiset albumit vuonna 2000” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  150. ^ “Classement Albums - année 2000” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  151. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  152. ^ a b “2000年 アルバム年間TOP100”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Yahoo! GeoCities. 19 tháng 11 năm 2000. Bản gốc lưu trữ 24 Tháng mười một năm 2014. Truy cập 4 tháng Mười năm 2017.
  153. ^ “Top Selling Albums of 2000”. RIANZ. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  154. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다”. MIAK (bằng tiếng Korean). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  155. ^ Sociedad General de Autores y Editores (SGAE) (27 tháng 12 năm 2001). “AFYVE EN 2000”. Anuarios SGAE: 44. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023. Click on the section "Musica grabada"
  156. ^ “Årslista Album (inkl samlingar), 2000” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  157. ^ “Swiss Year-end Charts 2000”. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  158. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 2000”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  159. ^ “2000: Billboard 200 Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  160. ^ 'N Sync tops the list of 2000's best selling albums”. Entertainment Weekly. 18 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.
  161. ^ “Jahreshitparade 2001” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria. 23 tháng 12 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  162. ^ “Jaaroverzichten 2001” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  163. ^ “Rapports Annuels 2001” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  164. ^ “Top 200 Albums of 2001 (based on sales)”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2022.
  165. ^ “European Top 100 Albums 2001” (PDF). Music & Media. 22 tháng 12 năm 2001. tr. 15. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.
  166. ^ “Classement Albums - année 2001” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  167. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  168. ^ “Swiss Year-End Charts 2001” (bằng tiếng Đức). Schweizer Hitparade. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  169. ^ “The Official UK Singles Chart 2001” (PDF). Official Charts Company. UKChartsPlus. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2016.
  170. ^ “The Year in Music: 2001” (PDF). Billboard. 29 tháng 12 năm 2001. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  171. ^ “Best of the 2000s Billboard 200 Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2011.
  172. ^ “Greatest of Aall Time Billboard 200 Albums By Women”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2017.
  173. ^ “Discos de oro y platino” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  174. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2001 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  175. ^ “Chứng nhận album Áo – Britney Spears – Oops I Did It Again” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo.
  176. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien.
  177. ^ “O fenômeno Britney Spears”. ISTOÉ (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Terra Networks. 22 tháng 1 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2001. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  178. ^ “Chứng nhận album Brasil – Britney Spears – Oops!...I Did It Again” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil.
  179. ^ Bell, Mike (7 tháng 3 năm 2003). “Oops! Can she do it again?”. Canoe.ca. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2012.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  180. ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – Oops!...I Did It Again” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  181. ^ “Hitlist 2000”. Hitlisten. IFPI Denmark. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2002. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
  182. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Britney Spears – Oops!... I Did It Again” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Scroll through the page-list below to obtain certification.
  183. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Britney Spears – Oops!...I Did It Again” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  184. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – Oops !... I Dit It Again” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
  185. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Britney Spears; 'Oops ... I Did It Again')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  186. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2000” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  187. ^ “Britney In Milan” (PDF). Billboard. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2022. Britney Spears met with the staff of Zomba Records Italy, who presented her with a special gold (50,000 units) and platinum (100,000 units) award for sales of her Jive album "Oops!... I Did It Again" in Italy.
  188. ^ “Chứng nhận album Ý – Britney Spears – Oops!... I Did It Again” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Oops!... I Did It Again" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  189. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – ブリトニー・スピアーズ – Oops!・・・I Did It Again” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2000年5月 ở menu thả xuống
  190. ^ a b “Going Pop This Time”. New Straits Times. 12 tháng 1 năm 2001. tr. 6. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023. Here they are, not in any particular order (all albums, released last year, have achieved at least gold or platinum status in Malaysia for sales exceeding 15,000 or 25,000 respectively).
  191. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2022. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Oops!...I Did It Again ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  192. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Britney Spears – Oops!...I Did It Again” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2022. Enter Oops!...I Did It Again in the "Artiest of titel" box. Select 2000 in the drop-down menu saying "Alle jaargangen".
  193. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Britney Spears – Oops I Did It Again” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ.
  194. ^ “IFPI Norsk platebransje Trofeer 1993–2011” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy.
  195. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2000 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2016.
  196. ^ “2000년 상반기 POP 순위집계” (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2022.
  197. ^ “2000년 POP 순위집계” (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2022.
  198. ^ “Chứng nhận album Hàn Quốc – Britney Spears – Oops!.. I Did It Again” (bằng tiếng Hàn). 한국음악콘텐츠협회 (KMCA).
  199. ^ Salaverri 2005, tr. 943
  200. ^ Panas, Dan (29 tháng 12 năm 2000). “Marie är popens drottning år 2000”. Aftonbladet (bằng tiếng Thụy Điển). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2021.
  201. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2002” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  202. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Oops!... I Did It Again')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
  203. ^ Copsey, Rob. “Albums turning 20 years old in 2020”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  204. ^ Trust, Gary (27 tháng 5 năm 2012). “Ask Billboard: Spears, Lovato's 'X'-cellent Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2022.
  205. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – Oops” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  206. ^ “Premios – 2000” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Uruguaya del Disco.
  207. ^ “Amazon.co.jp: ブリトニー・スピアーズ, クリスチャン・ランディン, ダイアン・ウォーレン, ジョーゲン・エロフソン, ルパート・ホルメス, ジョージ・テレン, ジェイソン・ブルーム, マックス・マーティン, ラミ, ミック・ジャガー, シャナイア・トゥエイン : ウップス!アイ・ディド・イット・アゲイン - ミュージック”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  208. ^ “Oops!...I Did It Again - Britney Spears: Amazon.de: Musik”. Amazon Germany. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  209. ^ “New Releases – For Week Starting May 15, 2000” (PDF). Music Week. 13 tháng 5 năm 2000. tr. 20. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022 – qua World Radio History.
  210. ^ “Oops .. I Did It Again!: Britney Spears: Amazon.ca: Music”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  211. ^ “Britney Spears, Britney Spears - Oops!... I Did It Again - Amazon”. Amazon. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  212. ^ “Oops!... I Did It Again (Special UK Edition)”. AllMusic. 9 tháng 10 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2021.
  213. ^ “Britney Spears – Oops!...I Did It Again Limited LP”. Urban Outfitters. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
  214. ^ “Britney Spears – Oops!...I Did It Again 20th anniversary edition picture vinyl”. BritneySpears. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
  215. ^ “Britney Spears – Oops!...I Did It Again Limited Cassette”. Urban Outfitters. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
  216. ^ “Oops!... I Did It Again (Neon Voilet Vinyl)”. JB Hi-Fi (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  217. ^ “Britney Spears: Oops!...I Did It Again (Neon Violet Vinyl) (LP) – jpc”. www.jpc.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  218. ^ Mixup. “Oops!... I Did It Again (Neon Violet Vinyl) - (Lp) - Britney Spears - Mixup”. www.mixup.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  219. ^ Spears, Britney (31 tháng 3 năm 2023). “Oops!... I Did It Again - Spears Britney | Muzyka Sklep EMPIK.COM”. empik.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2023.
  220. ^ “Britney Spears Oops!... I Did It Again Vinyl LP Neon Violet Colour Due Out 31/03/23”. Assai Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  221. ^ “Britney Spears - ...Baby One More Time [LP] | RECORD STORE DAY”. recordstoreday.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
HonKai: Star Rail - Character Creation Guide Collection
HonKai: Star Rail - Character Creation Guide Collection
HonKai: Star Rail - Character Creation Guide Collection
Jujutsu Kaisen chương 239: Kẻ sống sót ngốc nghếch
Jujutsu Kaisen chương 239: Kẻ sống sót ngốc nghếch
Cô nàng cáu giận Kenjaku vì tất cả những gì xảy ra trong Tử Diệt Hồi Du. Cô tự hỏi rằng liệu có quá tàn nhẫn không khi cho bọn họ sống lại bằng cách biến họ thành chú vật
Tâm lý học và sự gắn bó
Tâm lý học và sự gắn bó
Lại nhân câu chuyện về tại sao chúng ta có rất nhiều hình thái của các mối quan hệ: lãng mạn, bi lụy, khổ đau
Chiều cao của các nhân vật trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Chiều cao của các nhân vật trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Thực sự mà nói, Rimuru lẫn Millim đều là những nấm lùn chính hiệu, có điều trên anime lẫn manga nhiều khi không thể hiện được điều này.