Một phần trong loạt bài về |
Kitô giáo |
---|
Chủ đề liên quan |
Chủ đề Cơ Đốc giáo |
Giáo hội nghị[1], hoặc gọi là Công đồng đại kết, gọi tắt Công đồng, là hội nghị giám mục toàn thế giới có ý nghĩa đại biểu phổ biến trong Cơ Đốc giáo truyền thống, bàn luận xét hỏi biểu quyết các vấn đề giáo vụ trọng yếu và tranh chấp giáo lí. Chữ Anh của "đại kết" là ecumenical, bắt nguồn từ chữ Hi Lạp cổ οἰκουμενῐκός, nghĩa là "phổ quát".[2] Bốn hội nghị Cơ Đốc giáo vào thời kì đầu có ảnh hưởng sâu đậm đối với giáo lí của Cơ Đốc giáo là Giáo hội nghị Nicaea I, Giáo hội nghị Constantinople I, Giáo hội nghị Ephesus và Giáo hội nghị Chalcedon, kể từ hội nghị này về sau hình thành Đại chia cắt Giáo hội Đông - Tây.
Năm 1054, phát sinh Đại chia cắt Giáo hội Đông - Tây. Kể từ đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương (Chính giáo Hi Lạp) không công nhận Giáo hội nghị do Công giáo La Mã đơn phương triệu tập hội nghị, chỉ tin giữ tín điều do Giáo hội nghị lần thứ bảy xác lập. Mặc dù Giáo hội nghị Constantinople IV được cử hành trước khi Đại chia cắt Giáo hội, nhưng không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận. Do đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương ngày nay chỉ công nhận bảy giáo hội nghị, nhưng Công giáo La Mã cho là tám. Sau cuộc vận động Cải cách Tôn giáo Tin Lành, Giáo hội Anh giáo công nhận bảy giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Nicaea II); Tin Lành tông Calvin, Tin Lành tông Luther chỉ công nhận bốn giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Chalcedon). Lấy Giáo hội nghị Chalcedon - giáo hội nghị lần thứ tư làm ví dụ, đã khiển trách giáo hội ủng hộ thuyết Nhất vị luận (sau này hình thành Giáo hội Chính thống Đông phương), cho nên Giáo hội Chính thống Đông phương chỉ công nhận ba giáo hội nghị trước. Các giáo hội nghị kể từ sau Đại chia cắt Giáo hội do Công giáo La Mã đơn phương cử hành, cho nên nội dung không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận.
Mặc dù như vậy nhưng một bộ phận tín đồ Giáo hội Chính giáo Đông phương cho biết Giáo hội nghị Constantinople IV (869–870), Giáo hội nghị Constantinople V (1341–1351) và Hội nghị Jerusalem (năm 1672) là giáo hội nghị.[3]
Hội nghị giáo hội chính là đại biểu của giáo hội phổ quát hoặc giáo hội địa phương tụ họp cùng nhau, cùng thương thảo các sự vụ của giáo hội, nhằm đạt đến quyết định nhất trí. Hội nghị giáo hội có rất nhiều loại, ví dụ như hội nghị giám mục, hội nghị thượng phụ hoặc hội nghị địa phương, trong đó hội nghị có vị đại biểu cả giáo hội phổ quát gọi là giáo hội nghị.
Giáo hội nghị, hoặc Công đồng đại kết, là hội nghị giám mục toàn thế giới của Cơ Đốc giáo. Chữ "đại kết" bắt nguồn từ chữ Hi Lạp cổ οἰκουμενῐκός (en), nghĩa là "phổ quát".
Năm 1054, phát sinh Đại chia cắt Giáo hội Đông - Tây. Kể từ đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương (Chính giáo Hi Lạp) không công nhận Giáo hội nghị do Công giáo La Mã đơn phương triệu tập hội nghị, chỉ tin giữ tín điều do Giáo hội nghị lần thứ bảy xác lập. Mặc dù Giáo hội nghị Constantinople IV được cử hành trước khi Đại chia cắt Giáo hội, nhưng không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận. Do đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương ngày nay chỉ công nhận bảy giáo hội nghị, nhưng Công giáo La Mã cho là tám. Từ Giáo hội nghị Constantinople IV vào thế kỉ IX đến Giáo hội nghị Vatican II vào thế kỉ XX, không được Giáo hội phái Đông phương công nhận, trên thực tế chỉ là đại hội giám mục thế giới cấp cao nhất, quy mô lớn nhất và quan trọng nhất của Công giáo La Mã. Sau cuộc vận động Cải cách Tôn giáo Tin Lành, Giáo hội Anh giáo công nhận bảy giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Nicaea II); Tin Lành tông Calvin, Tin Lành tông Luther chỉ công nhận bốn giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Chalcedon). Lấy Giáo hội nghị Chalcedon - giáo hội nghị lần thứ tư làm ví dụ, đã khiển trách giáo hội ủng hộ thuyết Một ngôi (sau này hình thành Giáo hội Chính thống Đông phương), cho nên Giáo hội Chính thống Đông phương chỉ công nhận ba giáo hội nghị trước. Hơn nữa, các giáo hội nghị kể từ sau Đại chia cắt Giáo hội đều do Công giáo La Mã đơn phương cử hành, cho nên nội dung không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận.
Bắt đầu từ thế kỉ II, Giáo hội Cơ Đốc giáo đã hình thành truyền thống triệu tập hội nghị giáo hội để giải quyết các vấn đề như giáo lí, giáo luật, lễ nghi và chế độ. Tuy nhiên, dưới điều kiện Cơ Đốc giáo vẫn chưa có địa vị hợp pháp, sự ảnh hưởng của hội nghị giáo hội chỉ giới hạn trong một khu vực nhất định, không có ý nghĩa phổ quát. Sau khi Cơ Đốc giáo được hợp pháp hoá, hoàng đế La Mã Constantine I triệu tập khoảng 300 vị giám mục bên trong lãnh thổ đế quốc vào năm 325, đã cử hành Giáo hội nghị lần thứ nhất ở Nicaea (nay là huyện İznik, tỉnh Bursa, Thổ Nhĩ Kì), các nghị quyết của hội nghị bắt đầu đều có sức ràng buộc đối với giáo hội ở các nơi. Có tổng cộng bảy giáo hội nghị do hoàng đế La Mã triệu tập, mệnh danh là Bảy giáo hội nghị lớn, trong khoảng thời gian này giáo hội của hai phái Đông và Tây Cơ Đốc giáo vẫn chưa chính thức chia cắt, cho nên tính hợp pháp của những hội nghị này được Công giáo La Mã và Giáo hội Chính giáo Đông phương sau này công nhận. Đối với tính hợp pháp của Giáo hội nghị lần thứ tám, hai phái bắt đầu nẩy sinh tranh luận bàn cãi, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hai bên chia cắt. Các giáo hội nghị kể từ đó về sau tất cả đều do giáo hoàng triệu tập, các nghị quyết của hội nghị phải qua giáo hoàng phê chuẩn. Giáo lí thuyết Ba ngôi và thuyết Kitô được quy định bởi bốn giáo hội nghị trước trong Bảy giáo hội nghị lớn, được Công giáo La Mã, Giáo hội Chính giáo Đông phương và các tông phái chủ yếu của Tin Lành tiếp nhận, được coi là quy phạm của tín ngưỡng chính thống; hơn nữa, nghị quyết của các hội nghị đã qua sau này, chỉ có hiệu lực đối với các hệ phái công nhận tính hợp pháp của nó. Sự trỗi dậy của quốc gia dân tộc châu Âu vào thế kỉ XIV và Đại chia cắt Giáo hội Tây phương khiến cho quyền uy của giáo hoàng suy giảm, nội bộ Giáo hội Công giáo La Mã từng xuất hiện chủ trương giáo hội nghị phải cao hơn giáo hoàng, đề cao địa vị giám mục giáo phận, nhưng cuối cùng không được Giáo triều La Mã chấp nhận. Công đồng Vatican khoá I vào thế kỉ XIX ban bố "Thuyết bất khả ngộ giáo hoàng" (chỉ giáo hoàng cậy nhờ vào quyền hành tông đồ tối cao của ông, đức tin và giáo lí do đại biểu giáo hội công bố là không thể sai lầm, mà không phải giáo hoàng luôn luôn đúng), hơn nữa đã đề cao địa vị của giáo hoàng. Sau Công đồng Vatican khoá II vào thế kỉ XX, địa vị của giám mục giáo phận đã được đề cao.
Căn cứ luật giáo hội hiện hành, công đồng đại kết phải do giáo hoàng triệu tập hội nghị; ông còn nắm giữ các quyền như chủ trì hội nghị (tự thân chủ trì hoặc uỷ quyền đại biểu chủ trì), quyết định các hạng mục thảo luận trong hội nghị, trình tự cần tuân thủ lúc hội nghị tiến hành, địa điểm họp hội nghị, tuyên bố thôi họp hoặc giải tán hội nghị. Quyết định của công đồng đại kết cũng cần phải do giáo hoàng phê chuẩn và công bố. Giám mục hồng y, thượng phụ, tổng giám mục, giám mục trưởng, giám mục và viện trưởng tu viện đều có quyền tham dự và bỏ phiếu, nhưng các nhà thần học và nhà giáo luật học được mời dự họp chỉ có thể bỏ phiếu cố vấn. Giáo trưởng tham dự hội nghị cũng có thể đưa ra nghị trình thảo luận, nhưng đề nghị của họ cần phải do giáo hoàng đồng ý. Đối với giáo hội phổ quát, giáo hội nghị có được quyền tư pháp và quyền tài phán tối cao; nói cách khác, những sự vụ do giáo hội nghị quyết định không thể tái thượng tố lên giáo hoàng hoặc hội nghị. Nếu giáo hoàng không may qua đời trong lúc hội nghị tiến hành, đại hội phải dừng ngay lập tức theo luật, cho đến khi tân giáo hoàng hạ lệnh, tiếp tục hoặc giải tán hội nghị.
Trên đây là quy định về giáo hội nghị của luật giáo hội hiện hành, tuy nhiên, không phải tất cả giáo hội nghị trong giáo hội (có tổng cộng 21 giáo hội được công nhận) đều tuân thủ luật giáo hội này. Đặc biệt là các giáo hội nghị của mấy thế kỉ đầu đều do hoàng đế hoặc hoàng hậu đương thời triệu tập hội nghị, có lúc thậm chí đặc sứ của giáo hoàng cũng không có, chỉ bằng sự truy phong sau này để xác định tính đại kết của nó. Tuy nhiên, bắt đầu từ thế kỉ IX, giáo hoàng dần dần trở thành người triệu tập của công đồng đại kết. Sau thế kỉ XI, việc giáo hoàng triệu tập chính là tiêu chuẩn để đoán định giáo hội nghị khoá đó có hợp pháp hay không.
Giáo hội Chính giáo Đông phương ngày nay chỉ thừa nhận bảy giáo hội nghị, nhưng Công giáo La Mã cho là tám. Hơn nữa, sau khi đại chia cắt giáo hội, các giáo hội nghị do Công giáo La Mã đơn phương cử hành, cho nên nội dung không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận.
Các giáo hội nghị được giáo hội trong lịch sử như Công giáo La Mã, Giáo hội Chính giáo Đông phương, Giáo hội Anh, Tin Lành tông Calvin, Tin Lành tông Luther,... công nhận như dưới đây:
Lần | Năm | Tên gọi của hội nghị | Giáo hoàng tại vị | Hoàng đế La Mã triệu tập hội nghị | Kết quả ảnh hưởng sâu sắc của hội nghị | Giáo hội công nhận tính hợp pháp | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cơ Đốc giáo Tây phương
(Tây Giáo hội) |
Cơ Đốc giáo Đông phương
(Đông Giáo hội) | |||||||||
Giáo hội Công giáo La Mã | Tân giáo Cơ Đốc | Giáo hội Chính giáo Đông phương | Giáo hội Chính thống
Không công nhận Chalcedon |
Giáo hội Đông phương Assyria | ||||||
Bảy giáo hội nghị lớn (từ Giáo hội nghị lần thứ nhất đến Giáo hội nghị lần thứ bảy)[4] | ||||||||||
1 | Năm 325 | Giáo hội nghị Nicaea I | Sylvester I | Constantine I |
|
● | ● | ● | ● | ● |
2 | Năm 381 | Giáo hội nghị Constantinople I | Damasus I | Theodosius I |
|
● | ● | ● | ● | ● |
3 | Năm 431 | Giáo hội nghị Ephesus | Celestine I | Theodosius II |
|
● | ● | ● | ● | – |
4 | Năm 451 | Giáo hội nghị Chalcedon | Leo I | Marcian |
|
● | ● | ● | – | – |
5 | Năm 553 | Giáo hội nghị Constantinople II | Vigilius | Justinian I |
|
● | △ | ● | – | – |
6 | Năm 680 – 681 | Giáo hội nghị Constantinople III | Agatho | Constantine IV |
|
● | △ | ● | – | – |
7 | Năm 787 | Giáo hội nghị Nicaea II | Adrian I | Constantine VI |
|
● | △ | ● | – | – |
Công đồng chỉ có tính hợp pháp đối với Giáo hội Công giáo La Mã (từ Công đồng lần thứ tám đến Công đồng lần thứ 21)[5] | ||||||||||
8 | Năm 869 – 870 | Công đồng Constantinople IV | Adrian II | Basil I
và Adrian II |
|
● | – | – | – | – |
9 | Năm 1123 | Công đồng Lateran I | ● | – | – | – | – | |||
10 | Năm 1139 | Công đồng Lateran II | ● | – | – | – | – | |||
11 | Năm 1179 | Công đồng Lateran III | ● | – | – | – | – | |||
12 | Năm 1215 | Công đồng Lateran IV | ● | – | – | – | – | |||
13 | Năm 1245 | Công đồng Lyon I | ● | – | – | – | – | |||
14 | Năm 1274 | Công đồng Lyon II | ● | – | – | – | – | |||
15 | Năm 1311 – 1312 | Công đồng Vienne | ● | – | – | – | – | |||
16 | Năm 1414 – 1418 | Công đồng Constance | ● | – | – | – | – | |||
17 | Năm 1431 – 1445 | Công đồng Basel, Công đồng Florence[6] | ● | – | – | – | – | |||
18 | Năm 1512 – 1517 | Công đồng Lateran V | ● | – | – | – | – | |||
19 | Năm 1545 – 1563 | Công đồng Trent | ● | – | – | – | – | |||
20 | Năm 1869 – 1870 | Công đồng Vatican I | ● | – | – | – | – | |||
21 | Năm 1962 – 1965 | Công đồng Vatican II | ● | – | – | – | – |
Để có một ngày lễ Phục sinh thống nhất cho Cơ Đốc giáo toàn cầu, vào năm 325 Hoàng đế Constantine triệu tập Giáo hội nghị tại Nicaea để có quyết định về ngày lễ Phục sinh. Giáo hội nghị Nicaea ra quyết định về ngày lễ Phục sinh phải được cử hành vào ngày Chúa nhật, kế ngày trăng tròn và sau ngày Xuân phân (21 tháng 3). Nếu Chúa nhật của lễ Phục sinh rơi vào ngày lễ Vượt qua, thì lễ Phục sinh sẽ dời lại ngày Chúa nhật sau ngày lễ Vượt qua để hai ngày lễ không trùng nhau cùng trong một ngày.