Could I Have This Kiss Forever

"Could I Have This Kiss Forever"
Đĩa đơn của Whitney HoustonEnrique Iglesias
từ album EnriqueWhitney: The Greatest Hits
Phát hành10 tháng 9 năm 2000 (2000-09-10)
Thể loạiLatin pop
Thời lượng3:55
Hãng đĩaArista
Sáng tácDiane Warren
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của Whitney Houston
"I Learned from the Best"
(1999)
"Could I Have This Kiss Forever"
(2000)
"If I Told You That"
(2000)
Thứ tự đĩa đơn của Enrique Iglesias
"Be with You"
(2000)
"Could I Have This Kiss Forever"
(2000)
"Sad Eyes"
(2000)
Video âm nhạc
"Could I Have This Kiss Forever" trên YouTube

"Could I Have This Kiss Forever" là một bản song ca của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Whitney Houston và nghệ sĩ thu âm người Tây Ban Nha Enrique Iglesias, được viết lời bởi Diane Warren. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong album phòng thu tiếng Anh đầu tay của Iglesias, Enrique (1999), như là một bản ballad mang phong cách Latin chậm và được sản xuất bởi David Foster. Sau đó, bài hát đã được thu âm lại bởi đội sản xuất Metrophonic (bao gồm Mark TaylorBrian Rawling) với giai điệu sôi động hơn, và được phát hành vào ngày 10 tháng 9 năm 2000 bởi Arista Records như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album tổng hợp đầu tiên của Houston, Whitney: The Greatest Hits (2000), và là đĩa đơn thứ tư trích từ Enrique.

Sau khi phát hành, "Could I Have This Kiss Forever" nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao màn thể hiện của Houston trong bài hát, nhưng cũng vấp phải nhiều tranh cãi về quá trình sản xuất của nó và màn thể hiện của Iglesias. Tuy nhiên, nó đã gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Hà Lan và Thụy Sĩ, và lọt vào top 10 ở hầu hết những thị trường nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở Bỉ (Wallonia), Đức, Tây Ban Nha và Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, bài hát chỉ gặt hái những thành công tương đối, nơi nó đạt vị trí thứ 52 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.

Video ca nhạc cho "Could I Have This Kiss Forever" được dạo diễn bởi Francis Lawrence, trong đó Houston và Iglesias ở hai nơi khác nhau của một bữa tiệc, trước khi họ gặp nhau ở đoạn cuối video. Mặc dù gặt hái những thành công rực rỡ về mặt thương mại, bài hát chưa từng được biểu diễn trực tiếp bởi cả hai nghệ sĩ cùng nhau, mặc dù Iglesias từng trình diễn nó một vài lần trong các chuyến lưu diễn lưu diễn của anh. Ngoài ra, "Could I Have This Kiss Forever" cũng xuất hiện trong album tổng hợp của nam ca sĩ, Greatest Hits (2008).

Bối cảnh và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Houston và Iglesias thực ra chưa từng gặp mặt trực tiếp trong quá trình thu âm lần đầu tiên, vì họ thu âm bài hát ở hai phòng thu tách biệt;[1] Houston thu âm tại Hamburg, Đức và Iglesias thu âm tại Los Angeles, California. Hai người cuối cùng cũng gặp nhau trong phòng thu khi nó được thu âm lại để phát hành làm đĩa đơn bởi Metrophonic (nhóm sản xuất đứng sau thành công của những đĩa đơn trước của Iglesias, "Bailamos" và "Rhythm Divine"), và cho ra một phiên bản mid-tempo mới. Phiên bản mới được phát hành bởi hãng đĩa của Houston như là đĩa đơn đầu tiên ở Hoa Kỳ (thứ hai ở Vương quốc Anh) trích từ album tổng hợp đầu tiên của Houston, Whitney: The Greatest Hits (2000). Đối với Iglesias, bài hát được phát hành như là đĩa đơn thứ tư trích từ Enrique. Sau đó, "Could I Have This Kiss Forever" còn nằm trong album tổng hợp của anh, Greatest Hits, phát hành năm 2008.

"Tôi và Clive lúc đó đang bàn luận với nhau về nó vì tôi đã nghe bản thu nháp và rất thích nó... Và ông nói: "Tại sao anh không thu âm bài hát này với Whitney?". Vậy là chúng tôi cùng nhau thu âm, và điều này thật thú vị. Clive rất vui khi Whitney hát chung với tôi - Tôi thậm chí còn không phải là một nghệ sĩ của hãng Arista.", Iglesias giải thích.[2]

Tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Billboard viết rằng: "Từ đầu, việc song ca giữa ngôi sao evergreen pop/R&B Houston và hiện tượng nhạc Latin Iglesias đầy cảm xúc là một sự kết hợp kì lạ, đi xuyên qua phiên bản mid-tempo Tây Ban Nha đầy tiếng ghi-ta, phổ biến với tất cả mọi người và rõ ràng đã có phép màu xảy ra. Iglesias, dĩ nhiên, ở ngay tại nhà, hát rất tự nhiên và quyến rũ, trong khi phần trình diễn của Houston lại được giới hạn để miêu tả hoàn hảo một khoảnh khắc lãng mạn chỉ dành riêng cho rượu sâm-banh và nhảy múa."[3] J. D. Considine của tờ The Baltimore Sun cảm thấy "Could I Have This Kiss Forever" là bài hát mà Whitney "rất cố gằng để bộc lộ cảm xúc cùng Enrique Iglesias".[4] LA Weekly trong khi nhận xét về Whitney: The Greatest Hits đã bình luận rằng: "Iglesias thở dài theo từng câu hát, cố gắng để bộc lộ cảm xúc nhẹ nhàng thay vì ầm lên".[5] Jim Farber của tờ New York Daily News nhận xét rằng bài hát "tạo nên một cách dùng tiêu cực của cơn sốt Latin đang tràn qua".[6] Digital Spy khi đang đánh giá về album Greatest Hits của Iglesias đã viết rằng "Iglesias đã hát thực sự kinh khủng" và bài hát là "sai lầm tồi tệ nhất".[7]

Vào năm 2012, bài hát được xếp ở vị trí số một trong danh sách "10 bài hát hay nhất của Whitney từng bị những đài phát thanh bỏ qua" của Idolator vì "ca khúc mid-tempo chậm này tràn ngập xúc cảm, nhờ Iglesias và bản phối lại bị-giới-hạn-nhưng-hiệu-quả của đội ngũ sản xuất Metro.[8]

Video ca nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video ca nhạc cho "Could I Have This Kiss Forever" được dạo diễn bởi Francis Lawrence.[9] Entertainment Tonight ra mắt video trên toàn cầu vào ngày 22 tháng 6 năm 2000.

Diễn biến trên các bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

"Could I Have This Kiss Forever" đã gặt hái những thành công đáng kể trên toàn cầu, đạt vị trí số một ở Hà Lan và Thụy Sĩ. Bài hát cũng đồng thời lọt vào top 10 tại nhiều quốc gia khác, và nhận được chứng nhận Vàng ở Úc, Đức và Thụy Sĩ. Tuy vậy, nó chỉ gặt hái những thành công tương đối ở Hoa Kỳ, đạt vị trí thứ 52 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Đây cũng là bản hit cuối cùng của Houston nằm trong top 10 ở Đức.[10] Tại Phần Lan, bài hát nằm trong bảng xếp hạng trong hai tuần, đạt vị trí cao nhất ở vị trí thứ 17.[11] Tại Thụy Điển, bài hát đạt vị trí thứ hai và nằm trong bảng xếp hạng trong 19 tuần.[12] Nó cũng được chứng nhận đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Thụy Điển (GLF). Tại Ireland, bài hát đạt hạng tám và nằm trong bảng xếp hạng trong bảy tuần. Tại Áo, bài hát xếp thứ 8 và có 20 tuần xuất hiện trên bảng xếp hạng.[12] Tính đến năm 2012, "Could I Have This Kiss Forever" đã bán được 140.000 bản ở Vương quốc Anh.[13]

Thứ tự bài hát và định dạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Đĩa đơn CD[14]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
3."Could I Have This Kiss Forever" (đoạn hook)0:10
Đĩa đơn maxi tại Úc[15]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."I'm Your Baby Tonight" (Dronez Mix)5:03
3."I'm Every Woman" (Clivillés & Cole Mix)4:31
4."Queen Of The Night" (CJ Mackintosh Mix)5:19
Đĩa đơn maxi tại Canada[16]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Radio Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
3."Love Will Save The Day" (Jellybean & David Morales 1987 Classic Underground Mix)7:30
Đĩa đơn CD tại châu Âu[17]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
Đĩa đơn maxi tại châu Âu[18]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
3."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Mix)4:04
4."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Remix) (chỉnh sửa)3:38
5."If I Told You That" (Johnny Douglas Mix)4:48
6."I'm Every Woman" (Clivilles & Cole Mix)4:31
Đĩa than[19]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Mix) (chỉnh sửa)3:38
3."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
4."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Mix)4:02
5."If I Told You That" (Johnny Douglas Mix)4:48

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[59] Vàng 35.000^
Bỉ (BEA)[60] Vàng 25.000*
Pháp (SNEP)[61] Bạc 125.000*
Đức (BVMI)[62] Vàng 250.000^
New Zealand (RMNZ)[63] Vàng 5.000*
Thụy Điển (GLF)[64] Bạch kim 30.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[65] Vàng 25.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Raquel Cepeda (1 tháng 12 năm 1999). “Whitney Phones It In For Enrique Duet, Remix Of New Single”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  2. ^ Tom Singlair (22 tháng 10 năm 1999). “Hear And Now: Iglesias joins Houston”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  3. ^ “Billboard Singles Reviews”. classicwhitney.com. Truy cập 9 tháng 11 năm 2014.
  4. ^ J. D. Considine (25 tháng 5 năm 2000). “Whitney Houston The Greatest Hits”. The Baltimore Sun. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  5. ^ Ernest Hardy (28 tháng 6 năm 2000). “Saving It”. LA Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  6. ^ Farber, Jim (16 tháng 5 năm 2000). “Whitney Goes Half-Wild: Latest album set is 1 part bad ballads, and 1 part boogie bliss”. New York Daily News. Daily News, L.P. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  7. ^ David Balls. “Enrique Iglesias: 'Greatest Hits'. Digital Spy. Truy cập 3 tháng 11 năm 2008.
  8. ^ “Whitney Houston's 10 Best Songs That Radio Forgot”. idolator.com. Truy cập 21 tháng 2 năm 2012.[liên kết hỏng]
  9. ^ “Whitney Houston Celebrates 15-year Career With Greatest Hits Collections”. Jet Magazine: 58. 22 tháng 6 năm 2000. Truy cập 31 tháng 12 năm 2013.
  10. ^ “Single-Chartverfolgung”. musicline.de. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2012. Truy cập 2 tháng 10 năm 2012.
  11. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias: Could I Have This Kiss Forever”. ifpi.fi. Truy cập 10 tháng 1 năm 2010.
  12. ^ a b “WHITNEY HOUSTON & ENRIQUE IGLESIAS - COULD I HAVE THIS KISS FOREVER (SONG)”. swedischarts.com. Truy cập 10 tháng 1 năm 2010.
  13. ^ “Whitney Houston | Official Top 20”. MTV UK. MTV Networks. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2013.
  14. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Promo CD Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  15. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Australian Maxi Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  16. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Canadian Maxi Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  17. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (CD Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  18. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (European Maxi Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  19. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Vinyl Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  20. ^ "Australian-charts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  21. ^ "Austriancharts.at – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  22. ^ "Ultratop.be – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  23. ^ "Ultratop.be – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  24. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  25. ^ “Item Display - RPM - Library and Archives Canada”. Collectionscanada.gc.ca. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  26. ^ “Item Display - RPM - Library and Archives Canada”. Collectionscanada.gc.ca. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  27. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  28. ^ "Whitney Houston & Enrique Iglesias: Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  29. ^ "Lescharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  30. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias - Could I Have This Kiss Forever” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  31. ^ "Chart Track: Week 40, 2000" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  32. ^ "Italiancharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  33. ^ "Nederlandse Top 40 – week 40, 2000" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40 Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  34. ^ "Dutchcharts.nl – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  35. ^ "Charts.nz – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  36. ^ "Norwegiancharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  37. ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản thứ 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  38. ^ "Swedishcharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  39. ^ "Swisscharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  40. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  41. ^ "Whitney Houston Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  42. ^ "Whitney Houston Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  43. ^ "Whitney Houston Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  44. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Singles 2000”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  45. ^ “Jaaroverzichten 2000”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  46. ^ “Rapports Annuels 2000”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  47. ^ “Die TOP Charts der deutschen Hitlisten”. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  48. ^ “Eurochart Hot 100 Singles 2000” (PDF). Music & Media. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  49. ^ “Classement Singles - année 2000” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  50. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  51. ^ “I singoli più venduti del 2000” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  52. ^ “Tokyo Hot 100” (bằng tiếng Nhật). j-wave. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  53. ^ “Jaarlijsten 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Stichting Nederlandse Top 40. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  54. ^ “Jaaroverzichten 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  55. ^ “Årslista Singlar – År 2000” (bằng tiếng Thụy Điển). SNEP. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  56. ^ “Swiss Year-End Charts 2000”. Swiss Singles Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  57. ^ “Best Sellers of 2000: Singles Top 100”. Music Week. London, England: United Business Media: 25. 20 tháng 1 năm 2001.
  58. ^ “2000: The Year in Music” (PDF). Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  59. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2000 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  60. ^ “Ultratop − Goud en Platina – singles 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien.
  61. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Pháp – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
  62. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Whitney Houston & Enrique Iglesias; 'Could I Have This Kiss Forever')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  63. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have The Kiss Forever” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ.
  64. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2000” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  65. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Could I Have This Kiss Forever')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Kyouka Uzen - Nô Lệ Của Ma Đô Tinh Binh
Nhân vật Kyouka Uzen - Nô Lệ Của Ma Đô Tinh Binh
Kyouka Uzen (羽う前ぜん 京きょう香か, Uzen Kyōka) là Đội trưởng Đội 7 của Quân đoàn Chống Quỷ và là nhân vật nữ chính của bộ truyện tranh Mato Seihei no Slave.
Những thực phẩm giúp tăng sức đề kháng trước dịch cúm Corona
Những thực phẩm giúp tăng sức đề kháng trước dịch cúm Corona
Giữa tâm bão dịch bệnh corona, mỗi người cần chú ý bảo vệ sức khỏe để phòng tránh vi khuẩn tấn công vào cơ thể
Distinctiveness quan trọng như thế nào?
Distinctiveness quan trọng như thế nào?
Tức là thương hiệu nào càng dễ mua, càng được nhớ đến trong nhiều bối cảnh mua hàng khác nhau thì sẽ càng được mua nhiều hơn và do đó có thị phần càng lớn
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Bài viết sẽ tiết lộ nội dung truyện tuy nhiên thì các bạn chắc cũng biết luôn rồi: Gojo Satoru quay trở lại