Cuộc nổi dậy Ba Nhàn, Tiền Bột (bắt đầu: 1833, kết thúc: 1843), là cuộc đấu tranh chống triều Nguyễn, do Nguyễn Văn Nhàn và Lê Văn Bột làm đồng thủ lĩnh, khởi phát từ Sơn Tây vào đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Chống áp bức bất công, mưu tìm một cuộc sống ấm no và tốt đẹp hơn, đó là nguyên nhân chính đã làm bùng phát nhiều cuộc nổi dậy ở thời đầu nhà Nguyễn. Trong số đó có cuộc nổi dậy của Ba Nhàn, Tiền Bột ở tỉnh Sơn Tây cũ.
Ba Nhàn tên đầy đủ là Nguyễn Văn Nhàn (hoặc Nhờn, khi khởi binh chống nhà Nguyễn được người dân gọi là Quận Nhờn), là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo ở xóm Giếng, xã Dẫn Tự, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Dẫn Tự, thuộc xã Tân Cương, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc)[1].
Tục truyền, ông là người có sức vóc to khỏe, giỏi võ nghệ; và là anh em kết nghĩa với Tiền Bột (tên đầy đủ là Lê Văn Bột, còn được gọi là Bọt, không rõ thân thế).
Những năm trước khi cuộc nổi dậy bùng nổ (1833), với khẩu hiệu "lấy của nhà giàu, chia cho dân nghèo", Ba Nhàn và Tiền Bột đứng ra ngầm vận động giới dân nghèo cùng nổi dậy chống áp bức, được rất nhiều người nghe theo.
Buổi đầu, Ba Nhàn và Tiền Bột dẫn mấy ngàn người dân cùng chí hướng lên chân núi Tam Đảo vào Rừng Khâm, lập căn cứ huấn luyện quân và cất chứa lương thực. Thời nhà Nguyễn, Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam, ở địa giới hai huyện là Tam Dương của Sơn Tây và Đại Từ của Thái Nguyên (nay nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang). Còn Rừng Khâm, lúc bấy giờ là một khu rừng già rộng khoảng 7 hecta, nằm sâu trong thôn Bàn Long, thuộc xã Minh Quang (thời Nguyễn thuộc Thái Nguyên, nay thuộc huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc). Toàn bộ khu rừng nằm tựa vào chân núi Tam Đảo ở phía bắc và ngăn cách với bên ngoài bằng suối Rừng Khâm ở phía tây và khe Rừng Khâm ở phía đông.
Song ngoài lợi thế địa hình, Ba Nhàn và Tiền Bột còn cho xây dựng thêm những lũy đá để có chỗ phòng giữ căn cứ, như ở Dốc Chùa (phía tây bắc Rừng Khâm), Khe Trấn (phía đông bắc Rừng Khâm), Án Tiền (trên Rừng Hin), Án Hậu (trên núi Quần Ngựa)...Mặc dù cố giữ bí mật nơi trú đóng, nhưng cuối cùng các quan quân địa phương vẫn dò la được. Trích bản tâu của Án sát Sơn Tây Hồ Bảo Định viết vào tháng 3 năm Quý Tỵ (1833):
Nhà nghiên cứu Kiều Oánh Mậu, trong Bản triều bạn nghịch liệt truyện, cũng đã viết như sau:
Sau một thời gian chuẩn bị, khoảng tháng 3 (âm lịch) năm 1833, Ba Nhàn và Tiền Bột nhận lời hội quân với thủ lĩnh Lê Duy Lương (ở Hòa Bình) và Đinh Công Tiến (ở Thanh Hóa), để cùng đi vây đánh tỉnh thành Hưng Hóa. Mãi đến khi vua Minh Mạng phái tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự cùng các tướng lĩnh khác mang đại quân tới cứu, hai ông mới chịu thu quân về. Kể từ đó, từ căn cứ Rừng Khâm, Ba Nhàn và Tiền Bột lần lượt mang năm, sáu ngàn quân rầm rộ đi đánh phá các huyện lỵ, như: Bất Bạt, Tam Dương, Mỹ Lương, Yên Lạc, Yên Lãng (nay thuộc Đại Từ), Lập Thạch, Vĩnh Tường, phủ thành Quảng Oai, Lâm Thao,...
Hốt hoảng, Án sát Hồ Bảo Định gửi tấu sớ khẩn về triều, trong đó có câu:
Tuy đạt được một số thắng lợi, nhưng lực lượng nổi dậy cũng phải hao tổn nhiều, khi đông đảo quân triều từ các nơi kéo đến vây đánh. Sách Quốc triều sử toát yếu, chép:
Mưu tính việc lâu dài, khoảng giữa năm 1834, Ba Nhàn và Tiền Bột bàn nhau mở vòng vây, di chuyển lực lượng lên Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), Sơn Dương (nay thuộc Tuyên Quang) và lập căn cứ mới ở Vụ Quang (nay thuộc huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc), để không bị cô lập vì lúc này lực lượng của Lê Duy Lương đã suy yếu (thủ lĩnh Lương đã bị bắt vào tháng 6 âm lịch năm 1883), và để tiện bề liên kết với cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân ở châu Bảo Lạc (lúc bấy giờ thuộc Tuyên Quang).
Ở Vụ Quang, quân nổi dậy trú đóng ở Gò Quan và Gò Mom Hội. Phía trên Gò Nom Hội là một hang động có nhiều ngõ ngách, có thể chứa vài trăm người, nhưng lối vào hang thì kín đáo và chỉ đi lọt một người. Vì hang có nhiều dơi nên gọi là Hang Dơi [6]. Từ đây, Ba Nhàn và Tiền Bột mang quân đi tấn công huyện đường Phù Ninh đánh một trận ác liệt với quân triều ở xã Bổng Châu, thuộc huyện miền núi Thanh Ba (nay thuộc tỉnh Phú Thọ).
Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện, chép:
Trong một chỉ dụ gửi tướng Lê Văn Đức, vua Minh Mạng ra lệnh:
Sau đó, hai ông quyết định đưa quân lên Tuyên Quang để hiệp đồng với Nông Văn Vân, nhưng cả hai lần đều không thực hiện được. Sách Bắc Kỳ tiễu phỉ (Quyển 50) cho biết: Khoảng cuối tháng 5 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1834), Ba Nhàn và Tiền Bột dẫn hàng ngàn quân với đầy đủ súng điểu thương, khí giới, cờ trống đi qua các huyện Lập Thạch, Phù Ninh, Thanh Ba, Hạ Hòa...Đến ngày 8 tháng 6 năm ấy thì đến đồn Đại Đồng ở châu Thu (tức Thu Châu, nay là vùng đất thuộc huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái). Nhưng do một bất trắc nào đó, không thấy người của Nông Văn Vân đến đón như hẹn. Còn đang lúng túng, ngày 14 tháng 6, đông đảo quân triều hay tin kéo nhau đến vây đánh. Thua trận, Ba Nhàn và Tiền Bột phải cho quân tản vào rừng sâu và lùi dần về phía Sơn Tây. Nôn nóng, đích thân Tiền Bột lên Bảo Lạc gặp Nông Văn Vân, lập ra một kế hoạch mới. Trích bản tâu của tướng Nguyễn Công Trứ:
Song một lần nữa việc liên kết lại thất bại, vì gần đến ngày hẹn thì đại quân nhà Nguyễn đang rầm rộ tiến lên vùng Việt Bắc, trong đó đội quân chủ lực sẽ đánh vào Vân Trung (Bảo Lạc), đại bản doanh của Nông Văn Vân.
Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Mùi (1835), Nông Văn Vân bị quan quân truy đuổi (bị chết cháy trong rừng Thẩm Bát vào tháng sau), cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương do anh em họ Quách chỉ huy cũng đang dần tàn lụi, Ba Nhàn và Tiền Bột đành phải cho quân ẩn nấp ở vùng rừng núi Lâm Thao và Đoan Hùng.
Theo Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 1) thì đến năm 1843, Nguyễn Văn Nhàn bị bắt, Lê Văn Bột ra đầu thú [11]. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép tương tự:
Sau khi tra cứu sử liệu và đi đến nơi tìm hiểu, giáo sư Nguyễn Phan Quang đã cho biết quan điểm của mình như sau: