Cung Thuận Hoàng quý phi (Gia Khánh)

Cung Thuận Hoàng quý phi
恭顺皇贵妃
Gia Khánh Đế Hoàng quý phi
Thông tin chung
Sinh1787
Mất23 tháng 4, năm 1860
Viên Minh Viên, Bắc Kinh
An táng27 tháng 2 năm 1861
Xương lăng (昌陵), Thanh Tây lăng
Phối ngẫuThanh Nhân Tông
Gia Khánh Hoàng đế
Hậu duệ
Thụy hiệu
Cung Thuận Hoàng quý phi
(恭順皇貴妃)
Tước hiệu[Như quý nhân; 如貴人]
[Như tần; 如嬪]
[Như phi; 如妃]
[Hoàng khảo Như Quý phi; 皇考如貴妃]
[Hoàng khảo Như Hoàng quý phi; 皇考如皇貴妃]
[Hoàng tổ Như Hoàng quý thái phi; 皇祖如皇貴太妃]
Thân phụThiện Khánh
Thân mẫuDương thị

Cung Thuận Hoàng quý phi (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.

Xuất thân hiển hách, Cung Thuận Hoàng quý phi trải qua 3 triều Gia Khánh, Đạo QuangHàm Phong, trở thành một trong những phi tần sống thọ nhất, và giữ địa vị phi tần cao nhất trong thời của bà.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Cung Thuận hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị

Hậu thế danh môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Cung Thuận Hoàng quý phi sinh ra vào năm Càn Long thứ 52 (1787), xuất thân Tương Hoàng kỳ Mãn Châu, là hậu duệ từ gia tộc Nữu Hỗ Lộc thị của Hoằng Nghị công phủ Ngạch Diệc Đô, một thế gia hiển hách trong xã hội Mãn Thanh. Tuy không phải xuất thân dòng chính đại tông của Hoằng Nghị công phủ, song cũng là thế gia lưu giữ tước vị truyền đời. Tổ tiên của bà là con trai thứ 8 của Ngạch Diệc Đô, tên Đồ Nhĩ Cách (图尔格). Đồ Nhĩ Cách là danh thần có tiếng trước cả khi nhập quan, nhiều lần lập chiến công, phong làm Tam đẳng công (三等公), sau lại được xưng là Tam đẳng Quả Nghị Mưu Dũng công (三等果毅谋勇公), tạo ra 1 trong 2 chi đại tông của Quả Nghị công phủ Nữu Hỗ Lộc thế gia.

Tước vị của Đồ Nhĩ Cách truyền đến con trai Khoa Phổ Tác (科普索) thì bị cách tước, chuyển cho ấu đệ của Đồ Nhĩ Cách là Át Tất Long, do vậy dòng dõi đại tông Quả Nghị Mưu Dũng công do dòng của Át Tất Long truyền thừa. Con trưởng của Đồ Nhĩ Cách là Ngũ Nhĩ Cách (伍尔格), vì hi sinh chiến trận mà phong Kỵ đô úy (骑都尉), tước vị từ con cháu Ngũ Nhĩ Cách kế tục. Con cháu Ngũ Nhĩ Cách tuyệt tự, tước vị lại do con cháu của Khoa Phổ Tác là Xa Đặc Hồn (奢特珲) kế tục. Xa Đặc Hồn chính là cao tổ phụ của Cung Thuận Hoàng quý phi. Cụ nội của Cung Thuận Hoàng quý phi tên là Bác Sắc (博色), tập tước Kỵ đô úy, nhậm Nhất đẳng Thị vệ, sinh ra bốn con trai, trong đó con trai thứ 2 là Đạt Phúc (达福) tập tước vị, nhậm Phó Đô thống, con gái gả cho anh của Gia Khánh Đế là Chất Trang Thân vương Vĩnh Dung làm Kế Phúc tấn. Do vậy, tuy xét theo nhà chồng là chị dâu, nhưng xét theo gia tộc lại gọi là đường cô mẫu. Tổ phụ của Cung Thuận Hoàng quý phi là con trai thứ ba của Bác Sắc, tên Đạt Lộc (达禄).

Thuận tiện nhắc tới, Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu cũng xuất thân một chi Hoằng Nghị công phủ, tuy Hiếu Hòa Hoàng hậu có tôn vị Hoàng hậu, song xét về gia tộc lại thua Cung Thuận Hoàng quý phi một bậc. Xét về thứ bậc gia tộc cả hai là tộc tỉ muội.

Gia đình vọng tộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông nội Đạt Lộc cưới Bích Lộ thị (碧鲁氏) làm chính thê, sinh duy nhất một con trai, chính là Thiện Khánh (善慶), cha của Cung Thuận Hoàng quý phi. Thiện Khánh ở năm Càn Long thứ 23 (1758), lấy "Bút thiếp thức" nhập sĩ, năm Gia Khánh thứ 2 thăng làm Chủ sự (主事), năm sau lại qua đời. Nguyên phối Phú Sát thị (富察氏), chính là Mãn Châu Tương Hoàng kỳ Sa Tế Phú Sát thị đại gia tộc, là con gái Tri phủ Quan Đăng (官登), cháu gái của Nhị đẳng Đôn Huệ bá Mã Tề (马齐). Kế thất Dương thị thuộc Nội vụ phủ thế gia, là con gái Hình bộ Thị lang Kiền Lễ Bảo (虔礼保), cả hai đều sinh cho Thiện Khánh bốn con trai và ba con gái. Căn cứ theo Nữu Hoằng Nghị công gia phổ (钮弘毅公家谱), Phú Sát thị qua đời năm Càn Long thứ 46 (1781), do vậy chỉ có con trai cả Trường Liêm (长廉) là do Phú Sát thị sinh ra, còn lại đều là con của Dương thị sở sinh.

Con trai đầu của Thiện Khánh là Trường Liêm, sinh năm Càn Long thứ 45 (1780), là anh cả của Cung Thuận Hoàng quý phi, về sau cưới cháu gái trong tộc của mẹ đẻ. Con trai thứ Trường Văn (长文), sinh năm Càn Long thứ 53 (1788), và Trường Hỉ (长喜) sinh năm thứ 55 (1790), đều là hai em trai của Cung Thuận Hoàng quý phi. Con gái cả của Thiện Khánh chính là Cung Thuận Hoàng quý phi, con gái thứ 2 sinh năm Càn Long thứ 58 (1793), kém 6 tuổi so với bà, gả cho Bất nhập Bát phân Phụ quốc công, Hiệp bạn Đại học sĩ Kính Trưng (敬征), là con trai thứ tư của Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích, em gái út sinh năm Gia Khánh thứ 2 (1797), gả làm vợ của Giác La Cảnh Khánh (觉罗景庆).

Em trai bà Trường Hỉ, cưới con gái của Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích làm Chính Phu nhân, trong khi đó em gái thứ hai của bà gả vào làm dâu cho Túc Cung Thân vương, chỉ nhìn thôi cũng đã hình dung ra được gia thế không tầm thường của gia đình Cung Thuận Hoàng quý phi. Trong khi đó, em gái thứ hai của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu gả cho Kính Tự (敬叙), là con trai thứ hai của Túc Cung Thân vương. Rõ ràng, Cung Thuận Hoàng quý phi và Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu 2 chi gia tộc khá xa trong Hoằng Nghị công phủ thế gia, nhưng hôn nhân vô hình trung lại rất chặt chẽ. Từ điểm này suy đoán, Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu và Cung Thuận Hoàng quý phi có mối quan hệ không tồi.

Bên cạnh đó, gia tộc của Cung Thuận Hoàng quý phi 2 đời kết thông gia với Sa Tế Phú Sát thị, mà con gái của Quan Đăng là đích tiên mẫu của Cung Thuận Hoàng quý phi, trong khi đó cháu gái của Quan Đăng là tẩu tẩu của Cung Thuận Hoàng quý phi, mà huyền tôn nữ của Quan Đăng, chính là Thục Thận Hoàng quý phi của Thanh Mục Tông.

Đại Thanh tần phi

[sửa | sửa mã nguồn]

Quá trình nhập cung

[sửa | sửa mã nguồn]

Không rõ chính xác thời gian Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung, bà chỉ được ghi là nhập cung những năm đầu triều Gia Khánh (Gia Khánh sơ niên).

Theo mức độ thường thấy của Bát Kỳ tuyển tú, Nữu Hỗ Lộc thị phải từ 14 tuổi trở lên mới đủ điều kiện tuyển chọn tần phi, như vậy thời gian Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung là năm Gia Khánh thứ 5 (1800) hoặc Gia Khánh thứ 9 (1804), hai lần Bát Kỳ tuyển tú trước ghi nhận bà sinh nở đầu tiên sau khi nhập cung. Ở hai lần này, bà lần lượt là 13 tuổi cùng 17 tuổi, khả năng cao bà nhập cung năm thứ 9 hơn, và như thế thì Nữu Hỗ Lộc thị đã thuộc phạm vi Tú nữ lớn tuổi khi ấy. Ngay khi vừa nhập cung, Nữu Hỗ Lộc thị đã được phong làm Quý nhân, xưng hiệu là [Như; 如][1].

Năm Gia Khánh thứ 10 (1805), ngày 8 tháng 2, giờ Tuất, Như Quý nhân sinh được Hoàng bát nữ. Cùng lúc đó, Như Quý nhân được tấn lên Tần, xưng hiệu "Như" của bà cũng được phiên ra Mãn ngữ để dùng làm phong hiệu chính thức theo quy định. Căn cứ tài liệu Hồng xưng thông dụng (鸿称通用) của Nội vụ phủ, phong hiệu "Như" Mãn văn là 「Dahashūn」, ý là Thuận theo, Vâng theo. Ngày 4 tháng 6 (âm lịch) cùng năm, lấy Lễ bộ Thượng thư Cung A Lạp (恭阿拉) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Hô Tố Thông A (瑚素通阿) làm Phó sứ, sách phong làm Như tần (如嬪).

Sách văn viết:

Vào tháng 11 cùng năm khi phong Tần, con gái Hoàng bát nữ của bà cũng qua đời, không có phong hiệu. Năm Gia Khánh thứ 15 (1810), tháng 9 (âm lịch), bà được phong làm Như phi (如妃), cư ngụ Vĩnh Thọ cung. Một năm sau, ngày 25 tháng giêng, bà sinh thêm được Hoàng cửu nữ, nhưng tới 4 tuổi thì Hoàng nữ cũng qua đời.

Năm Gia Khánh thứ 19 (1814), ngày 27 tháng 2, giờ Sửu, Như phi sinh được con trai duy nhất, Hoàng ngũ tử Miên Du[2].

Cuối đời an tĩnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), tháng 7 (âm lịch), Gia Khánh Đế băng hà, Đạo Quang Đế kế vị. Tân Đế đăng cơ, ban phát chỉ dụ thưởng khắp triều đình, trong đó ân phong nhiều Hoàng tử của Tiên Đế, con trai Như phi là Miên Du tuy mới 5 tuổi cũng được dự, ân phong làm Đa La Huệ Quận vương. Bên cạnh đó, Đạo Quang Đế còn truy phong cho Hoàng cửu nữ đã chết yểu của Như phi tước vị Cố Luân Tuệ Mẫn Công chúa (固伦慧愍公主).

Ngày 23 tháng 8 (âm lịch) cùng năm, bà được Đạo Quang Đế tấn phong lên là Hoàng khảo Như Quý phi (皇考如貴妃)[3], trú ngụ tại tại Thọ An cung (壽安宮). Ngày 20 tháng 12, lấy Lễ bộ Tả Thị lang Thư Minh (书铭) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Mao Mô (毛谟) làm Phó sứ, hành sách phong lễ. Năm Đạo Quang thứ 26 (1846), ngày 10 tháng 3, bà được tấn phong lên là Hoàng khảo Như Hoàng quý phi (皇考如皇貴妃)[4]. Ngày 10 tháng 12, lấy Đại học sĩ Trác Bỉnh Điềm (卓秉恬) làm Chính sứ, Lễ bộ Hữu Thị lang Uy Thập Nột (倭什讷) làm Phó sứ, hành sách phong lễ.

Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), ngày 22 tháng 1 (âm lịch), Hàm Phong Đế sau khi ra chỉ tấn phong Hoàng quý phi làm Hoàng quý thái phi, đồng thời cũng ra chỉ dụ tấn phong Như Hoàng quý phi làm Hoàng tổ Như Hoàng quý thái phi (皇祖如皇貴太妃)[5]. Sang năm Hàm Phong nguyên niên (1851), ngày 10 tháng 3 (âm lịch), mệnh Đại học sĩ Trác Bỉnh Điềm làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Liên Thuận (联顺) làm Phó sứ, hành sách phong lễ[6].

Sách văn viết:

Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), ngày 3 tháng 3 (âm lịch), Như Hoàng quý thái phi Nữu Hỗ Lộc thị qua đời tại Viên Minh Viên, hưởng thọ 74 tuổi. Ngày hôm sau, di thể của bà liễm nhập kim quan. Sang ngày 22 tháng 5 cùng năm, giờ Mẹo, hành lễ dâng tặng thụy hiệu tại Cát An sở, thụy hiệu là Cung Thuận Hoàng quý phi (恭順皇貴妃). Ngày 19 tháng 8, kim quan của bà tạm an ở Sùng Các trang (崇各庄).

Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 22 tháng 2, giờ Dần, kim quan của bà phụng di Thanh Tây lăng. Hàm Phong Đế dụ chỉ Nội vụ phủ Đại thần Minh Thiện (明善) tại Tị Thử sơn trang, mọi việc cần giản lược, đem tùy theo kim quan của tần phi Đạo Quang Đế là Thường phi tùy đến Thanh Tây lăng luôn thể. Kim quan của Cung Thuận Hoàng quý phi để ở gian thứ, đại điện phía đông. Ngày 27 tháng 2, an táng địa cung ở Xương lăng (昌陵).

Hậu duệ

[sửa | sửa mã nguồn]

Cung Thuận Hoàng quý phi sinh hạ 1 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ:

  1. Hoàng bát nữ (皇八女), sinh ngày 8 tháng 2 năm Gia Khánh thứ 10 (1805), mất khoảng tháng 11 cùng năm.
  2. Cố Luân Tuệ Mẫn Công chúa (固伦慧愍公主; 25 tháng 11 năm 1811 - tháng 5 năm 1815), mất khi chỉ mới 5 tuổi. Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), Đạo Quang Đế gia tặng làm ["Cố Luân Công chúa"], cùng với chị khác mẹ Hòa Thạc Tuệ An Công chúa an táng vào mộ của Lương Các trang.
  3. Miên Du (绵愉; 8 tháng 3, năm 1814 - 9 tháng 1, năm 1865), Hoàng tử thứ năm của Gia Khánh Đế. Thụy Huệ Đoan Thân vương (惠端亲王).

Trong văn hóa đại chúng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim truyền hình Diễn viên Nhân vật
2004 Thâm cung nội chiến Đặng Tụy Văn Nữu Hỗ Lộc Như Nguyệt (Như phi)
2013 Thâm cung nội chiến 2 Đặng Tụy Văn Nữu Hỗ Lộc Như Nguyệt (Như phi)
2017 Thiên mệnh Hà Diễm Quyên Như tần

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ 嘉庆帝晋封如贵人为如嫔册文:册文曰、朕惟椒庭翊化。教妇学于六宫。兰殿承辉。备内官于九室。鸾章光贲。翟采荣增。咨尔贵人钮祜禄氏、德著柔嘉。心存敬慎。协彤闱之礼秩。绳矩明衷。茂紫掖之声华。珩琚合度。是用晋封尔为如嫔。锡之册命。尔其玉齍赞洁。式膺蕃祉于璇闱。珠佩宣勤。益励芳规于绮观。钦哉。
  2. ^ 《清史稿·列传一·后妃》记载:恭顺皇贵妃,钮祜禄氏。嘉庆初,选入宫,为如贵人。累进如妃。宣宗尊为皇考如贵妃,居寿安宫。文宗尊为皇祖如皇贵太妃。薨,年七十四,谥曰恭顺皇贵妃。子一,绵愉。女二,殇。
  3. ^ 道光帝尊嘉庆如妃为如贵妃册文:命礼部右侍郎书铭、内阁学士毛谟、恭赍册宝。尊封如妃钮祜禄氏为如贵妃。册文曰。教襄星掖。丝纶增芝检之辉。庆笃云礽。屏翰启桐圭之祚。光昭彤史。彩焕金题。皇考如妃钮祜禄氏。德协臧嘉。性符淑慎。夙娴内则。思履信于羲经。丕著令仪。佐嗣音于周雅。婉心矢恪。椒庭分鞠采之荣。懿质含章。兰殿喜荆枝之茂。宜崇显号。用表芳型。谨以册宝尊为皇考如贵妃。于戏。欣逢熙洽之辰。播徽称于玉牒。长愿骈蕃之祉。介景福于璇宫。谨言。
  4. ^ 道光帝尊封嘉庆如贵妃为如皇贵妃册文:册文曰。佐治仰翟衣之范。庆笃璇闺。延洪添鹤算之筹。型垂璆简。缅怀壸德。式举彝章。皇考如贵妃、质秉安贞。性成温惠。昔日恩承枫扆。赞中宫而淑慎恒昭。频年躬侍萱闱。备内职而敬恭益懋。初元崇礼。懿号先加。纯嘏诞膺。令仪足式。椒涂衍庆。丝纶增兰检之辉。鞠采凝祥。屏翰永桐圭之祚。庥嘉勿替。位秩宜崇。谨以册宝尊为如皇贵妃。于戏。鸿章洊至。受介福以重申。象服弥章。迪延龄于周甲。聿崇懋典。祗迓蕃厘。谨言。
  5. ^ 咸丰朝实录卷之二 Lưu trữ 2018-08-12 tại Wayback Machine: 谕内阁、如皇贵妃承侍皇祖多年。叠经皇考加崇位号。现在年齿最尊。允宜特晋隆称。以申敬礼。谨尊封为如皇贵太妃所有应行事宜。该衙门察例具奏
  6. ^ 清实录咸丰朝实录 > 实录卷之二十九 Lưu trữ 2019-08-03 tại Wayback Machine: ○丁酉。命大学士卓秉恬、礼部左侍郎联顺、恭赍册宝。尊封仁宗睿皇帝如皇贵妃钮祜禄氏、为如皇贵太妃。册文曰。翊坤元而赞化。播媺重闱。体巽顺以含章。扬芬中禁。爰稽懿典。懋贲温纶。皇祖如皇贵妃钮祜禄氏。德秉柔嘉。性成淑慎。式仪型于图史。雅副徽音。协矩度于珩璜。虔修内职。椒涂佐治。翚衣彰茀禄之华。兰掖凝庥。螽羽衍桐封之祚。宜申隆礼。用表芳馨。谨以册宝尊封为皇祖如皇贵太妃。于戏。琅函纪盛。绥景福以无疆。瑶筴增辉。迓洪禧于有永。谨言。
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan