Giáo phận Phát Diệm Dioecesis Phatdiemensis | |
---|---|
Vị trí | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa giới | Ninh Bình và một phần tỉnh Hòa Bình (các huyện Lạc Thủy, Yên Thủy) |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Hà Nội |
Thống kê | |
Dân số - Giáo dân | (tính đến 2022) 160.493[1] |
Giáo hạt | 9 (2017) |
Giáo xứ | 89 (2024) |
Thông tin | |
Giáo phái | Công giáo Rôma |
Thành lập | Ngày 15 tháng 4 năm 1901 |
Nhà thờ chính tòa | Nữ vương Rất thánh Mân Côi (Nhà thờ Phát Diệm) |
Toà giám mục | 75 Phát Diệm Đông, Kim Sơn, Ninh Bình |
Thánh bổn mạng | Thánh Phêrô và Thánh Phaolô tông đồ |
Linh mục đoàn | 163 (2024)[2][1]</ref> |
Linh mục dòng | 20[1] |
Tổng số Tu sĩ | 523 (2022)[1] |
Nam Tu sĩ | 177[1] |
Nữ Tu sĩ | 346[1] |
Giáo lý viên | 806[1] |
Lãnh đạo hiện tại | |
Giáo hoàng | Franciscus |
Trưởng giáo tỉnh | Giuse Vũ Văn Thiên |
Giám mục | Phêrô Kiều Công Tùng |
Tổng Đại diện | Antôn Phan Văn Tự |
Chưởng ấn | Phêrô Nguyễn Văn Hiện |
Đại diện tư pháp | Luca Phạm Văn Huy |
Nguyên giám mục | Giuse Nguyễn Văn Yến Giuse Nguyễn Năng |
Trang mạng | |
http://www.phatdiem.org |
Giáo phận Phát Diệm (tiếng Latin: Dioecesis de Phatdiem) là một giáo phận Công giáo tại Việt Nam.[3][4][5] Đây là giáo phận đầu tiên ở Việt Nam được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam cai quản thay cho các giáo sĩ truyền giáo ngoại quốc. Nhà thờ chính tòa Phát Diệm được ví như "kinh đô Công giáo" của Việt Nam.[6]
Giáo phận hiện tại được cai quản bởi giám mục Phêrô Kiều Công Tùng (từ năm 2023)[7].
Địa giới giáo phận Phát Diệm rộng 1.787 km². Năm 2021, giáo phận Phát Diệm có khoảng 158.625 giáo dân (15% dân số), 136 linh mục và 79 giáo xứ, trong tổng số dân số địa phương là 1.038.580 người.[2] Theo thống kê năm 2022, Giáo phận Phát Diệm có 160.493 giáo dân, 165 linh mục, 523 tu sĩ, 93 đại chủng sinh và 806 giáo lý viên.[1] Nhà thờ Đức mẹ Mân Côi (còn gọi là nhà thờ đá Phát Diệm) ở thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình được chỉ định làm nhà thờ chính tòa của giáo phận.[8]
Mặc dù giáo phận Phát Diệm nằm trên diện tích rộng 1.787 km², bao gồm toàn bộ tỉnh Ninh Bình và vùng phía nam tỉnh Hòa Bình (các huyện Lạc Thủy, Yên Thủy) nhưng mật độ giáo dân lại tập trung nhiều ở huyện Kim Sơn với 80.000 giáo dân và 32 giáo xứ, chiếm 55% tổng số giáo dân của giáo phận mặc dù diện tích chỉ chiếm 11,6% tổng diện tích giáo phận.
Đầu thế kỷ XIX, cả vùng Kim Sơn ngày nay vẫn còn là vùng đất bồi với bùn lầy, cỏ sậy. Năm 1828, ông Nguyễn Công Trứ được triều đình Huế phái ra Bắc để khai phá những vùng đất mới và đã lập ra huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và huyện Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình). Tên gọi Phát Diệm xuất hiện vào năm Minh Mạng thứ 10 (1829), khi huyện Kim Sơn được thành lập.
Có thể nói công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài chỉ thực sự bắt đầu từ khi linh mục Alexandre de Rhodes và linh mục Marquez cập bến Cửa Bạng (nay thuộc Ba Làng, Thanh Hóa) vào ngày lễ thánh Giuse (19 tháng 3 năm 1627). Trong khi chờ đợi ra kinh đô Thăng Long (nay là Hà Nội), các ngài đã giảng đạo tại Van-no, vốn từng được một số người cho là gần cửa Thần Phù, ngày nay là xứ Hảo Nho, thuộc giáo phận Phát Diệm.
Năm 1659, Tòa Thánh thành lập hai Vùng Đại Diện Tông Tòa (từ đây xin gọi tắt là giáo phận) Đàng Ngoài và Đàng Trong, với hai vị Đại Diện Tông Toà tiên khởi là François Pallu và Lambert de la Motte, cũng là hai vị sáng lập Hội Thừa Sai Paris. Tuy nhiên, mãi đến năm 1666, các linh mục đầu tiên thuộc Hội Thừa sai Paris mới đặt chân lên Đàng Ngoài và bắt đầu thực sự tham gia công việc rao giảng Tin Mừng tại vùng đất này.
Năm 1679, Hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài được phân đôi thành Đông và Tây Đàng Ngoài. Vùng đất giáo phận Phát Diệm ngày nay thuộc Tây Đàng Ngoài do Giám mục Jacques de Bourges coi sóc. Năm 1712, vùng đất ngày nay là Phát Diệm đã có 34 nhà thờ và nhà nguyện với 4.540 tín hữu.
Ngày 27 tháng 3 năm 1846, Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Ngoài lại được chia thành Tây và Nam Đàng Ngoài. Phát Diệm thuộc về Tây Đàng Ngoài do Giám mục Retord Liêu coi sóc với 4 giáo xứ: Phúc Nhạc có 10.600 tín hữu, Yên Vân 1.598, Bạch Bát 3.482, Đồng Chưa 4.000.
Năm 1895, Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Ngoài lại được phân chia lần nữa thành Tây Đàng Ngoài và Thượng Đàng Ngoài, quen gọi là Hạt Đại diện Tông Tòa Đoài (Địa phận Đoài). Phần đất Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài do Giám mục Gendreau Đông coi sóc.
Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm (quen gọi là Địa phận Phát Diệm) chính thức được thành lập ngày 19 tháng 4 năm 1901 khi Giáo hoàng Lêô XIII chia Tây Đàng Ngoài thành hai: Tây Đàng Ngoài (Hà Nội bây giờ) và Hạt Đại diện Tông Tòa/Địa phận mang tên mới là Duyên Hải Đàng Ngoài, còn được gọi là Hạt Đại diện Tông Tòa (địa phận) Thanh, gồm tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa và Châu Lào. Ngày 3 tháng 12 năm 1924, địa phận Thanh được đổi thành Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm.
Năm 1932, Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm được chia đôi để thành lập Hạt Đại diện Tông Tòa (Địa phận) mới mang tên Hạt Đại diện Tông Tòa Thanh Hóa.
Ngày 11 tháng 6 năm 1933, Giáo hoàng Piô XI đặt linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm giám mục người Việt Nam tiên khởi, làm giám mục phó Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Giám mục Tòng sau đó kế nhiệm chức Đại diện Tông Tòa năm 1935, và cai quản địa phận cho đến khi hồi hưu năm 1943. Giám mục được chọn kế nhiệm là Gioan Maria Phan Đình Phùng, nhưng ông nhanh chóng qua đời sau ít tháng chính thức là Đại diện Tông Tòa. Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ được tấn phong năm 1945, quản lý địa phận từ năm 1945 cho đến khi di cư vào Nam, và trên danh nghĩa là Đai diện Tông Tòa Phát Diệm cho đến năm 1959. Tình hình tại Phát Diệm, linh mục Phaolô Bùi Chu Tạo đảm trách vai trò Giám quản Tông Tòa Địa phận Phát Diệm năm 1957, thăng Đại diện Tông Tòa Phát Diệm năm 1959.
Ngày 24 tháng 11 năm 1960, với sắc chỉ Venerabilium Nostrorum, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam và nâng các Hạt Đại diện tông tòa ở Việt Nam lên hàng Giáo phận chính tòa. Giám mục Phaolô Bùi Chu Tạo là giám mục chính tòa Tiên khởi của giáo phận Phát Diệm. Sau giám mục Phaolô Tạo, lần lượt các vị giám mục kế nhiệm quản lý giáo phận; Giuse Nguyễn Văn Yến (giám mục phó 1988-1998, giám mục chính tòa 1998-2007), Giuse Nguyễn Năng (2009-2019) và Phêrô Kiều Công Tùng (từ năm 2023). Giáo phận cũng có hai giai đoạn được quản lý bởi hai vị Giám quản Tông Tòa do lâm vào tình cảnh trống tòa: Giuse Nguyễn Chí Linh (Giám mục Giáo phận Thanh Hóa; 2007-2009) và Giuse Nguyễn Năng (thuyên chuyển từ Phát Diệm vào làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh; 2019-2023).
Địa giới giáo phận: phía bắc giáp tổng giáo phận Hà Nội và giáo phận Bùi Chu, phía nam giáp giáo phận Thanh Hóa, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây giáp giáo phận Hưng Hóa.
Giáo phận Phát Diệm được chia thành 9 giáo hạt.[9]
Hạt Bạch Liên gồm 8 giáo xứ nằm trên địa bàn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Cách Tâm gồm 8 giáo xứ nằm trên nửa phần phía bắc huyện Kim Sơn giáp sông Đáy và một phần nhỏ huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Đồng Chưa gồm 10 xứ nằm trên địa bàn huyện Gia Viễn và một phần nhỏ huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Ninh Bình gồm 12 giáo xứ và 1 chuẩn xứ nằm trên địa bàn thành phố Ninh Bình, thành phố Tam Điệp, huyện Hoa Lư và một phần nhỏ các huyện Nho Quan, Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Phát Diệm gồm 9 giáo xứ nằm trên phần trung tâm huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Phúc Nhạc gồm 9 xứ nằm trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Tôn Đạo gồm 8 giáo xứ nằm trên nửa phần phía bắc huyện Kim Sơn (các xã ở phía bắc thị trấn Phát Diệm), tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Văn Hải gồm 14 giáo xứ nằm trên phần phía nam huyện Kim Sơn giáp vịnh Bắc Bộ, tỉnh Ninh Bình, xếp theo ABC:
Hạt Vô Hốt gồm 11 giáo xứ và 1 Giáo họ độc lập nằm trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và các huyện Lạc Thủy, Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, xếp theo ABC:
Tòa Giám mục của giáo phận đặt tại thị trấn Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình.
STT | Chân dung | Huy hiệu | Tên | Thời gian quản nhiệm | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
Hạt Đại diện Tông tòa Duyên hải Bắc Kỳ (1901-1924) | |||||
1 † | Jean-Pierre-Alexandre Marcou Thành | 1901-1935 | |||
2 † | Louis-Christian-Marie de Cooman Hành | 1917-1932 | |||
Hạt Đại diện Tông tòa Phát Diệm (1924-1960) | |||||
3 † | Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng | 1933-1943 | |||
4 † | Gioan Maria Phan Đình Phùng | 1943-1944 | |||
5 † | Tađêô Lê Hữu Từ | 1945-1959 | |||
6 † | Phaolô Bùi Chu Tạo | 1959-1960 | |||
Giáo phận Phát Diệm (kể từ năm 1960) | |||||
Phaolô Bùi Chu Tạo | 1960-1998 | ||||
7 † | Giuse Lê Quý Thanh | 1963-1974 | |||
8 † | Giuse Nguyễn Thiện Khuyến | 1976-1981 | |||
9 | Giuse Nguyễn Văn Yến | 1988-1998 1998-2007 |
|||
10 | Giuse Nguyễn Chí Linh | 2007-2009 | Giám quản Tông Tòa | ||
11 | Giuse Nguyễn Năng | 2009-2019 2019-2023[11] |
Giám mục chính tòa Giám quản Tông Tòa | ||
12 | Phêrô Kiều Công Tùng | 2023-nay |
Ghi chú:
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên h