Good Girl Gone Bad: Reloaded

Good Girl Gone Bad: Reloaded
Album phòng thu (tái phát hành) của Rihanna
Phát hành2 tháng 6 năm 2008 (2008-06-02)
Thu âm2006–2008
Thể loại
Thời lượng57:03
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Rihanna
Good Girl Gone Bad
(2007)
Good Girl Gone Bad: Reloaded
(2008)
Good Girl Gone Bad: The Remixes
(2009)
Thứ tự album phòng thu của Rihanna
Good Girl Gone Bad
(2007)
Good Girl Gone Bad: Reloaded
(2008)
Rated R
(2009)
Đĩa đơn từ Good Girl Gone Bad: Reloaded
  1. "Take a Bow"
    Phát hành: 15 tháng 4 năm 2008
  2. "Hate That I Love You (Phiên bản Spanglish)"
    Phát hành: 28 tháng 4 năm 2008
  3. "If I Never See Your Face Again"
    Phát hành: 2 tháng 5 năm 2008
  4. "Disturbia"
    Phát hành: 17 tháng 6 năm 2008

Good Girl Gone Bad: Reloadedphiên bản tái phát hành của album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna mang tên Good Girl Gone Bad (2007). Album được phát hành lần đầu dưới định dạng nhạc số tại một số quốc gia vào ngày 2 tháng 6 năm 2008 thông qua các hãng đĩa Def Jam Recordings và SRP Records. Trong album này, Rihanna đã bổ sung thêm ba bài hát mới so với album gốc cùng một đĩa DVD bao gồm những cảnh quay hậu trường được ghi lại trong quá trình thực hiện chuyến lưu diễn toàn cầu Good Girl Gone Bad Tour (2007–2009). Nhằm tạo ra các chất liệu âm nhạc mới, nữ ca sĩ đã hợp tác cùng với các nhà sản xuất thu âm quen thuộc với cô như Ne-Yo, Stargate, C. "Tricky" Stewart cùng một số các nhà sản xuất khác như Brian Kennedy, Mark Endert, Mike Elizondo, Mark "Spike" Stent và nhóm nhạc nam Maroon 5.

Good Girl Gone Bad: Reloaded đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình, đặc biệt cho phần âm nhạc và những chất liệu mới được bổ sung so với album gốc. Tuy nhiên, một số nhà chuyên môn lại cho rằng việc ra mắt album này là không cần thiết khi chỉ có ba bài hát mới được thêm vào. Trong số những giải thưởng và đề cử đã đạt được, ba bài hát kể trên đã nhận được hai đề cử giải Grammy tại lễ trao giải năm 2009. Đĩa đơn "Disturbia" đã giành được một đề cử giải Grammy tại hạng mục Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất, trong khi ca khúc "If I Never See Your Face Again" lại được đề cử cho hạng mục Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất.

Sau khi ra mắt, Good Girl Gone Bad: Reloaded đã giúp cho album gốc Good Girl Gone Bad được góp mặt thêm một lần nữa trên một số bảng xếp hạng âm nhạc. Good Girl Gone Bad: Reloaded đã bán ra hơn 63.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành và đạt vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ. Album còn lọt vào bảng xếp hạng âm nhạc tại New Zealand, đạt được vị trí cao nhất là vị trí thứ tư, và được chứng nhận đĩa Bạch kim tại quốc gia này với doanh số tiêu thụ lên tới hơn 15.000 bản. Good Girl Gone Bad: Reloaded gồm bốn đĩa đơn, trong đó có "Take a Bow", bản hit từng đạt vị trí quán quân tại Mỹ, "Disturbia", "If I Never See Your Face Again" (hợp tác với Maroon 5) và "Hate That I Love You" (phiên bản Spanglish).

Để quảng bá rộng rãi Good Girl Gone Bad: Reloaded, Rihanna đã biểu diễn các ca khúc nằm trong album trên một số chương trình truyền hình và tại một số lễ trao giải, bao gồm chương trình FNMTV và lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2008.

Bối cảnh và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Good Girl Gone Bad: Reloaded bao gồm một nhạc phẩm hợp tác giữa Rihanna và nhóm nhạc nam Maroon 5.

Rihanna bắt đầu lên kế hoạch sáng tác album phòng thu thứ ba của cô mang tựa đề Good Girl Gone Bad (2007) từ cuối năm 2006. Cuối tháng 2 năm 2007, album đã sắp sửa hoàn thành. Hầu hết các bài hát trích từ album được thu âm tại phòng thu Westlake Recording Studios tại thành phố Los Angeles, California, cùng thời điểm mà album phòng thu thứ hai A Girl like Me (2006) cũng được thu âm tại đây. Rihanna đã hợp tác với một số nhà sản xuất đã từng tham gia sản xuất trong những album trước đó của cô như Carl Sturken, Ne-Yo, J.R. Rotem, Sean Garrett và nhóm hai nhà sản xuất thu âm người Na Uy Stargate. Ngoài ra, album cũng là nhạc phẩm cộng tác đầu tiên giữa Rihanna với Timbalandwill.i.am.[3] Kể từ khi phát hành, Good Girl Gone Bad đã gặt hái nhiều thành công thương mại trên toàn thế giới, với vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng UK Albums Chart tại Anh Quốc và vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ.[4][5] Ngoài ra, Good Girl Gone Bad còn nhận được những phản hồi tích cực từ giới phê bình.[6] Đĩa đơn đầu tiên, "Umbrella", đạt được nhiều thành công toàn cầu và giành được vị trí quán quân tại khoảng 15 quốc gia trên thế giới, trong đó có bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ với vị trí dẫn đầu bảng trong 7 tuần liên tiếp;[7] và bảng xếp hạng UK Albums Chart, khi giữ vững vị trí quán quân trên bảng xếp hạng trong 15 tuần liên tiếp.[8]

Đầu năm 2008, Rihanna tiết lộ một ca khúc mới với tựa đề "Take a Bow",[9] ra mắt lần đầu tiên vào ngày 14 tháng 2 năm 2008 trên chương trình On Air with Ryan Seacrest của đài phát thanh KIIS-FM.[10] MTV News khẳng định rằng ca khúc kể trên sẽ là đĩa đơn đầu tiên trích từ album Good Girl Gone Bad: Reloaded, một album tái phát hành được ra mắt để kỉ niệm một năm phát hành Good Girl Gone Bad.[9] Rihanna sau này xác nhận rằng album tái phát hành sẽ bao gồm hai bài hát mới nữa chứ không chỉ riêng "Take a Bow"; trong đó sẽ có một sản phẩm hợp tác giữa với ban nhạc pop rock người Mỹ Maroon 5 để bổ sung hoàn chỉnh danh sách ca khúc nằm trong album trước.[11] Good Girl Gone Bad: Reloaded được phát hành lần đầu tiên dưới dạng nhạc số vào ngày 2 tháng 6 năm 2008 tại một số quốc gia bao gồm Úc,[12] Ireland,[13] New Zealand[14] và Anh Quốc.[15] Album được phát hành dưới dạng CD lần đầu tiên vào ngày 13 tháng 6 tại Đức.[16] Vào ngày 17 tháng 6, CD tiếp tục được ra mắt tại Canada,[17] Anh Quốc[18] và Hoa Kỳ.[19] Một đĩa DVD chứa đựng những cảnh quay hậu trường trong chuyến lưu diễn Good Girl Gone Bad Tour (2007–2009) của nữ ca sĩ được đưa vào phiên bản đặc biệt của album phát hành tại Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian nhất định.[20] Rihanna sau đó đã tổ chức một bữa tiệc quảng bá dành cho album tại Thành phố New York, với sự góp mặt của một số ngôi sao nổi tiếng như LeToya Luckett, Teyana TaylorWynter Gordon.[21]

Chất liệu mới

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhạc mẫu:
    "Disturbia" (2008)
    Một đoạn nhạc mẫu trích từ bài hát "Disturbia", là một bài hát thuộc thể loại electropop với tiết tấu nhanh, sở hữu những đặc điểm gần giống với đĩa đơn "Don't Stop the Music" năm 2007 của chính cô và một đoạn điệp khúc "đậm chất rave mà lạnh như băng".[22]
    "If I Never See Your Face Again" (2008)
    "If I Never See Your Face Again" là một bài hát R&B hòa quyện với những âm thanh "sắc bén" của những phím đàn synthesizer và những tiếng đàn guitar "sống động".[23]
  • Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.

Những bài hát mới được thu âm cho album Good Girl Gone Bad: Reloaded là "Disturbia", "Hatin' on the Club", "If I Never See Your Face Again" (hợp tác với Maroon 5) và "Take a Bow". Tất cả các bài hát trên đều được xác nhận sẽ có mặt trong album, tuy nhiên vì không rõ lý do gì mà "Hatin' on the Club" đã bị loại khỏi phiên bản cuối cùng.[24] Ca khúc được phát tán trên mạng vào tháng 1 năm 2009 với vai trò là một ca khúc nằm trong mixtape Big Mike & DJ Neptune's R&B Kings Part Two.[25]

"Disturbia" là một bài hát thuộc thể loại electropop với tiết tấu nhanh.[26] Theo lời nhà phê bình Fraser McAlpine đến từ BBC Music, bài hát sở hữu những đặc điểm khá giống với đĩa đơn "Don't Stop the Music" năm 2007 của chính nữ ca sĩ. McAlpine còn cho rằng "Disturbia" sở hữu đoạn điệp khúc "đậm chất rave mà lạnh như băng" đi kèm với giọng hát "băng giá" của nữ ca sĩ.[22] Bài hát do Brian Kennedy Seals, Chris Brown, Robert Allen và Andre Merritt sáng tác và từng được lên kế hoạch sẽ nằm trong phiên bản tái phát hành của album phòng thu thứ hai mang tên Exclusive (2007) của Brown. Tuy nhiên, sau khi hoàn thiện ca khúc, Brown lại cảm thấy ca khúc "Forever" hợp ý anh hơn, vì thế nên sau này nó đã được chọn làm đĩa đơn cho album tái phát hành nói trên. Anh nghĩ rằng "Disturbia" có thể sẽ phù hợp hơn với một nghệ sĩ nữ và đã quyết định tặng cho Rihanna ca khúc này.[27] Phần nhạc nền của "Disturbia" do Brian Kennedy Seals sản xuất và phần giọng hát của Rihanna được xử lý bởi Makeba Riddick. Nhà sản xuất thu âm Andrew Vastola đảm nhiệm phần thu âm cho ca khúc tại phòng thu Rocky Mountain Recorders tại thành phố Denver, Colorado. Công việc phối khí cho ca khúc do Phil Tan đảm nhiệm tại phòng thu Soapbox Records tại thành phố Atlanta, Georgia. Ngoài ra, trong đội ngũ thực hiện bài hát còn có ghi công của hai nhà sản xuất Josh Houghkirk và Carlos Oyanedel.[28] Phát biểu với tờ USA Today, Brown miêu tả cảm xúc của mình khi tặng ca khúc "Disturbia" cho Rihanna: "Thật vui khi được tự do sáng tạo và ngay cả khi bạn có một ý tưởng trong đầu, bạn có thể viết nó ra và có thể gửi nó cho một người khác vì nó có thể không hợp với bạn, nhưng nó vẫn là một ý tưởng mà chính bạn nghĩ ra".[29]

"If I Never See Your Face Again" là một bài hát R&B[30] hòa quyện với những âm thanh "sắc bén" của những phím đàn synthesizer và những tiếng đàn guitar "sống động".[23] Bài hát do Adam LevineJames Valentine, hai thành viên của nhóm nhạc Maroon 5, sáng tác. Phần nhạc nền của ca khúc do Mark Endert, Mike Elizondo, Mark "Spike" Stent, C. "Tricky" Stewart và Maroon 5 sản xuất. Mark "Spike" Stent đảm nhiệm trọng trách thu âm ca khúc tại phòng thu Conway Studios ở khu vực Hollywood, tại phòng thu Glenwood Place Studios ở thành phố Burbank, California và tại phòng thu Phantom Studios ở thành phố Westlake Village, California. Mark Endert là người đã phối khí cho bài hát tại phòng thu Scream Studios ở thành phố Miami với sự hỗ trợ của Doug Johnson.[28] "If I Never See Your Face Again" trước đây từng là một ca khúc nằm trong danh sách bài hát của album It Won't Be Soon Before Long phiên bản thường của nhóm nhạc mà không có sự góp giọng của Rihanna. Levine bày tỏ trong một cuộc phỏng vấn với MTV News rằng anh muốn thử một điều gì đó khác biệt cho phiên bản tái phát hành của album. Anh cũng cho biết thêm rằng anh đã có mời Rihanna tham gia thu âm bài hát trong phòng thu cùng với nhóm nhạc và việc thu âm bài hát đã hoàn thành xong rất nhanh. Levine miêu tả quá trình thu âm bài hát: "[...] nếu có phép màu hay phản ứng hóa học xảy ra ở đấy, mọi người cũng chẳng cần màng tới chúng."[31] Trong một cuộc phỏng vấn với chương trình Total Request Live của MTV, Rihanna nói rằng cô cảm thấy phấn khích khi hợp tác với Maroon 5 vì cô rất "yêu thích họ" và những tác phẩm của họ.[11]

"Take a Bow" là một bài hát thuộc thể loại R&B[32] miêu tả sự thờ ơ của một người phụ nữ trong việc hàn gắn lại mối quan hệ với một người bạn trai đê tiện và không chung thủy.[9] Bài hát do Ne-Yo, Mikkel S. EriksenTor Erik Hermansen viết lời. Hermansen và Eriksen đảm nhiệm công việc sản xuất bài hát dưới nghệ danh Stargate với sự cộng tác của Ne-Yo. Eriksen là người đã thu âm giọng hát của Rihanna cho bài hát tại phòng thu Roc the Mic Studios ở Thành phố New York, tại phòng thu Westlake Studios ở Los Angeles và Parr Street Studios ở Liverpool. Bài hát được phối âm bởi Phil Tan tại phòng thu Soapbox Studios ở Atlanta, Georgia, với sự hỗ trợ của Josh Houghkirk.[28]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Phiên bản tiếng Spanglish của bài hát "Hate That I Love You" với sự góp giọng của David Brisbal (ảnh) được phát hành với vai trò là đĩa đơn thứ hai trích từ album.

"Take a Bow" được phát hành với vai trò là đĩa đơn đầu tiên trích từ album Good Girl Gone Bad: Reloaded và là đĩa đơn thứ năm nếu xét cả hai album. Ngày 14 tháng 3 năm 2008, bài hát được bày bán rộng rãi trên các thị trường nhạc số, kể cả trên website của hãng đĩa Def Jam Recordings,[33] và được bán trên iTunes Store vào ngày 6 tháng 5 năm 2008.[34] "Take a Bow" sau đó giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và trở thành bài hát thứ ba của Rihanna đạt vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng này.[35] Bài hát đã tiêu thụ được hơn 3 triệu bản sao kỹ thuật số trên toàn cầu,[36] và đã được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) đã cấp chứng nhận 4 lần Bạch kim.[37] Đĩa đơn còn giành được vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng âm nhạc tại Canada,[38] Đan Mạch,[39] Ireland,[40] Slovakia[41] và Anh Quốc.[42] Video âm nhạc của bài hát do Anthony Mandler làm đạo diễn.[43]

Phiên bản tiếng Spanglish của đĩa đơn "Hate That I Love You" với sự góp giọng của David Bisbal, là đĩa đơn thứ hai của album và ra mắt vào ngày 28 tháng 4 năm 2008 tại một số quốc gia bao gồm Argentina,[44] Brazil[45] và Tây Ban Nha.[46] Bài hát từng đạt được thứ hạng 37 trên bảng xếp hạng Spanish Singles Chart và giữ vững được sự có mặt của nó trên bảng xếp hạng này trong hơn 2 tuần tiếp theo.[47] "If I See Your Face Again", một nhạc phẩm hợp tác giữa nữ ca sĩ và Maroon 5, được phát hành với vai trò là đĩa đơn thứ ba từ Good Girl Gone Bad: Reloaded. Ca khúc được gửi đến đài phát thanh contemporary hit radio tại Mỹ vào ngày 15 tháng 5 năm 2008.[48] Sau khi phát hành, "If I See Your Face Again" đã lọt vào top 20 trên hơn 5 bảng xếp hạng âm nhạc toàn thế giới. Video âm nhạc của bài hát do Anthony Mandler làm đạo diễn, lấy bối cảnh là một phim trường trong nhà tọa lạc tại Castaic, California. Một nhà phê bình đến từ nhật báo The Guardian đã miêu tả video là "tác phẩm gợi dục cao cấp".[49]

Sau khi Good Girl Gone Bad: Reloaded ra mắt, Rihanna quyết định gặp mặt L.A. Reid, chủ tịch của hãng thu âm Def Jam Recordings và đưa ra lời đề nghị về việc phát hành ca khúc "Disturbia" làm đĩa đơn tiếp theo.[50] Phát biểu với MTV News, Reid cho biết: "Đó là lần đầu tiên mà Rihanna thật sự tiếp cận tôi và nói rằng 'Đây là bài hát mà cháu muốn phát hành.' Cô ấy cho tôi nghe thử bài hát. [...] Cô ấy thực sự hiểu được hit là gì và cô ấy biết những gì cần nói."[50] "Disturbia" được gửi đến đài phát thanh contemporary hit radio ở Mỹ vào ngày 17 tháng 6 năm 2008[48] và được phát hành dưới dạng CD tại Anh Quốc vào ngày 22 tháng 7 năm 2008.[51] Ca khúc đã mang về cho Rihanna giải thưởng Bài hát quốc tế xuất sắc nhất tại lễ trao giải NRJ Music Awards năm 2009.[52] "Disturbia" từng giành được vị trí quán quân tại Bỉ[53] và New Zealand,[54] trở thành một bản hit lọt vào top 10 tại hơn 20 quốc gia trên thế giới. Đĩa đơn đã đạt được vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong 2 tuần liên tiếp, đồng thời trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba của Rihanna trích từ album Good Girl Gone Bad và là đĩa đơn thứ tư nếu xét cả hai album trên Hot 100.[55] Video âm nhạc "Disturbia" do Anthony Mandler làm đạo diễn[56] lấy bối cảnh ở nhiều địa điểm khác nhau, trong đó có một nhà tù và một phòng hơi ngạt.[57]

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Để quảng bá rộng rãi Good Girl Gone Bad: Reloaded, Rihanna đã biểu diễn các bài hát nằm trong album trên một số chương trình truyền hình và lễ trao giải. Cô biểu diễn ca khúc "Take a Bow" lần đầu tiên tại lễ trao giải MuchMusic Video Awards năm 2008 tổ chức tại Toronto, Canada vào ngày 15 tháng 6 năm 2008.[58] Ngày 20 tháng 6, Rihanna xuất hiện tại buổi hòa nhạc Concert Series do chương trình Today tổ chức trên con đường Rockfeller Plaza thuộc khu liên hợp Rockfeller Center, Thành phố New York. Tại đây, nữ ca sĩ đã trình bày "Take a Bow" cùng với các đĩa đơn 2007 của cô gồm "Umbrella" và "Don't Stop the Music".[59] Vào ngày 27 tháng 7, nữ ca sĩ xuất hiện trên chương trình FNMTV cùng với nhóm nhạc Maroon 5. Cô biểu diễn ca khúc "Take a Bow" trước màn trình diễn nhạc phẩm hợp tác "If I Never See Your Face Again" của họ.[60] Tháng 7 năm 2008, Rihanna trình bày phiên bản Spanglish của ca khúc "Hate That I Love You" trên một tập phát sóng của mùa 6 của chương trình tìm kiếm tài năng thực tế ở Tây Ban Nha, Operación Triunfo.[61]

Rihanna biểu diễn ca khúc "Disturbia" lần đầu tiên tại lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2008 tổ chức vào ngày 7 tháng 9 năm 2008.[62] Cô mặc một bộ trang phục "lấy cảm hứng từ tiểu văn hóa goth". Cùng với vũ đoàn, Rihanna đã cho khán giả chiêm ngưỡng một điệu nhảy lấy cảm hứng từ màn vũ đạo xuất hiện trong video âm nhạc Thriller của Michael Jackson. Gậy dạ quang (glow stick) và một số đạo cụ làm bằng da khác được sử dụng để tô điểm cho màn vũ đạo nói trên.[63][64] Vào ngày 19 tháng 9 năm 2008, Rihanna ghé thăm đất nước Pháp và có một tiết mục trình bày "Disturbia" trên chương trình tìm kiếm tài năng thực tế Star Academy France.[65] Ngày 29 tháng 1 năm 2009, trước khi giải bóng bầu dục Super Bowl năm 2009 chính thức diễn ra, Rihanna thể hiện trực tiếp ca khúc tại buổi hoà nhạc NFL Pepsi Smash Super Bowl Bash được tổ chức tại nhà thi đấu Pepsi Center ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Cô cũng đồng thời cho khán giả thưởng thức một đoạn nhạc nền trích từ ca khúc "Seven Nation Army" của bộ đôi The White Stripes trong tiết mục của mình. Màn trình diễn tăng thêm phần sôi động với những ngọn lửa được phun lên dọc theo hai bên hông sân khấu.[66]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Một nhà phê bình từ tờ The National đã dành lời khen ngợi cho chất liệu nhạc của album Good Girl Gone Bad, đặc biệt là "tính phổ biến" của ca khúc "Umbrella", đồng thời cũng dành nhiều lời khen ngợi cho "Don't Stop the Music", "Hate That I Love You" và "Shut Up and Drive". Anh còn nói thêm rằng việc tái phát hành album là để kỷ niệm một năm ngày album gốc ra mắt công chúng, đồng thời gọi những bài hát mới là "ví dụ điển hình cho những gì bạn mong muốn ở dòng nhạc pop phải có và cũng là minh chứng cụ thể cho sức mạnh của album gốc cũng như hình tượng mới của Rihanna."[67] Spence D. đến từ trang web IGN đã miêu tả ca khúc "Disturbia" trong bài đánh giá của mình về album là được gây dựng trên một đoạn hook[a] "bum-bum-be-dum-bum-bum..." dễ lan truyền rộng rãi đến mọi người; phần hook này có thể đưa bạn vào thứ nhịp điệu điện tử sống động của ca khúc". Anh còn nhận xét bài hát "Take a Bow" là hoàn toàn phù hợp cho một "ngày ảm đạm hậu chia tay" và dành nhiều lời khen cho giọng hát của Rihanna trong bài hát. Theo lời D., "If I Never See Your Face Again" là một bài hát được sáng tác dựa trên cảm hứng từ các nhạc phẩm của nam nhạc sĩ người Mỹ Prince và "sự cộng tác sau này của Rihanna [với nhóm nhạc] đã đưa bài hát lên một tầm cao mới".[68]

J. Edward Keyes từ eMusic cho album bốn trên năm sao với lời lời khen cho khâu sản xuất "siêu vị lai" cũng như Rihanna's "giọng ca đậm tính Robo Dominatrix—vốn là một trong những lí do lớn khiến cho các bản thu trở nên hoàn hảo hơn. Good Girl Gone Bad: Reloaded là thứ nhạc pop điện tử của thế kỷ 25."[69] Nick Levine từ Digital Spy cũng cho Good Girl Gone Bad: Reloaded bốn trên năm sao, nhưng anh cũng bày tỏ hoài nghi về việc phát hành lại album, với lời bình "liệu có đáng khi phát hành Good Girl Gone Bad tận hai lần chỉ để cho khán giả nghe vài bài hát mới".[70] Dù vậy, anh cũng dành lời khen cho các bài hát mới được thêm vào, đặc biệt là "If I Never See Your Face Again".[70] Giữa nhiều giải thưởng và đề cử, "Disturbia" và "If I Never See Your Face Again" mang về cho Rihanna hai đề cử tại lễ trao giải Grammy lần thứ 51, lần lượt là Thu âm nhạc dance xuất sắc nhấtHợp tác giọng pop xuất sắc nhất.[71]

Diễn biến trên các bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi album được phát hành, người ta dự đoán rằng sẽ có từ 45.000 đến 50.000 bản sao được tiêu thụ trong tuần đầu tiên tại Mỹ.[59] Hết ngày 22 tháng 6 năm 2018, album đã bán ra hơn 63.000 bản và giúp cho album Good Girl Gone Bad nhảy vọt từ vị trí 124 lên đến vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Billboard 200 sau 55 tuần "trụ vững" trên bảng xếp hạng.[72] Good Girl Gone Bad còn từng vươn lên vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Top R&B/Hip-Hop Albums,[73] đồng nghĩa album đã được quay trở lại top 10 trên bảng xếp hạng sau lần ra mắt lần đầu tiên của nó vào tháng 6 năm 2007. Bên cạnh đó, năm bài hát trích từ album tái phát hành đã lọt vào trên bảng xếp hạng Hot Digital Songs. Bài hát có thứ hạng cao nhất trong số năm bài hát là "Disturbia", với vị trí thứ sáu.[72] Vào tuần kế tiếp, Good Girl Gone Bad: Reloaded tụt xuống vị trí thứ chín và bán ra thêm 40.000 bản nữa.[74] Trong tuần thứ ba kể từ khi album ra mắt công chúng, nó đạt vị trí thứ mười với doanh số bán ra trong tuần này là 41.000 bản sao.[75] Tính đến tháng 11 năm 2012, cả hai album đã bán ra hơn 2.800.000 bản sao chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ.[76] Ngoài ra, Good Girl Gone Bad: Reloaded cũng đã giúp cho Good Girl Gone Bad thêm một lần nữa góp mặt trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart của Canada và giành lấy vị thứ cao nhất là vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng này.[77]

Good Girl Gone Bad: Reloaded ra mắt tại vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng New Zealand Albums Chart vào ngày 30 tháng 6 năm 2008.[78] Album sau đó đạt vị trí thứ tư (vị trí cao nhất mà nó đạt được) trên bảng xếp hạng vào tuần tiếp theo. Với doanh số nhập hàng ở nước này là 15.000 bản, album được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm New Zealand (RIANZ) cấp chứng nhận Bạch kim.[79] Cùng với phiên bản tái phát hành, album gốc lọt vào bảng xếp hạng UK Albums Chart một lần nữa tại thứ hạng 12 từ ngày 16 tháng 6 đến hết tuần đó.[80] Vào tuần tiếp theo, album tụt xuống vị trí thứ 16.[81] Tính đến tháng 6 năm 2012, cả hai album tiêu thụ được hơn 1.850.000 bản sao tổng cộng tại Anh Quốc.[82] Tại Đan Mạch, sau khi Good Girl Gone Bad: Reloaded ra mắt, album gốc xuất hiện trở lại trên bảng xếp hạng Danish Albums Chart ở vị trí thứ 15. Vào tuần kế tiếp, album vươn lên hạng chín, rồi chạm đến vị trí thứ tư (là vị trí cao nhất của album trên bảng xếp hạng) vào tuần thứ ba.[83] Ngoài ra, cũng nhờ Good Girl Gone Bad: ReloadedGood Girl Gone Bad một lần nữa góp mặt trên bảng xếp hạng Swiss Albums Chart của Thuỵ Sĩ tại vị trí thứ 32[84] và bảng xếp hạng Australian Albums Chart của Úc tại vị trí thứ 36.[85]

Dấu ấn

[sửa | sửa mã nguồn]
Với đĩa đơn "Disturbia", Rihanna (trái, ảnh năm 2010), cùng với các nữ ca sĩ Beyoncé Knowles (giữa, ảnh năm 2009) và Mariah Carey (phải, ảnh năm 2008), trở thành những nữ nghệ sĩ có nhiều bản hit đạt vị trí quán quân trên Hot 100 nhất trong thập niên 2000.[55]

Sau khi Good Girl Gone Bad: Reloaded được phát hành, doanh số bán ra của album gốc Good Girl Gone Bad được phát hành trước đó có thời điểm tăng vọt hơn 930%—nhiều hơn bất kì album không phải đầu tay nào trong lịch sử của bảng xếp hạng Billboard 200.[72] Đến tháng 7 năm 2010, Good Girl Gone Bad: Reloaded trở thành album đứng thứ ba trong danh sách những album sở hữu các bài hát có doanh số bán ra tổng thể nhiều nhất tại Hoa Kỳ. Các bài hát trích từ album đã bán ra tổng cộng hơn 17.081.000 bản sao kỹ thuật số, chỉ đứng sau The Fame Monster của nữ nghệ sĩ Lady GagaThe E.N.D. của nhóm nhạc The Black Eyed Peas. Trong số đó, "Disturbia" và "Take a Bow" là hai trong số những bài hát có số lượng tải về nhiều nhất trong album.[86] Trước khi đạt đến vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, "Take a Bow" chỉ giành được vị trí thứ 53, rồi mới lấy được vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng với doanh số bán ra dưới dạng nhạc số là 267.000 bản sao.[35] Vào thời điểm đó, đây là bài hát có cuộc "lội ngược dòng" ngoạn mục thứ hai lên đến vị trí thứ nhất trong lịch sử bảng xếp hạng Hot 100, chỉ bị dẫn trước bởi đĩa đơn "Makes Me Wonder" (2007) của Maroon 5. Cùng với ca khúc "Umbrella", "Take a Bow" còn giúp cho nữ ca sĩ góp mặt trong danh sách những đĩa đơn có doanh số bán ra dưới dạng nhạc số cao nhất trong tuần đầu tiên phát hành – vị trí dẫn đầu thuộc về đĩa đơn "Touch My Body" (2008) của nữ ca sĩ Mariah Carey với doanh số bán ra trong tuần đầu tiên là 286.000 bản, vị trí thứ hai thuộc về "Disturbia" của Rihanna với 277.000 bản[35] và vị trí thứ ba thuộc về "Take a Bow". "Disturbia" trở thành đĩa đơn quán quân trên Hot 100 thứ tư của Rihanna, giúp cho Rihanna có cùng thành tích với nữ ca sĩ Beyoncé Knowles và Mariah Carey khi là những nữ nghệ sĩ có nhiều bản hit đạt vị trí quán quân nhất trong thập niên 2000.[55]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Umbrella" (hợp tác với Jay-Z)
4:35
2."Push Up on Me"
  • Rotem
  • Riddick[a]
3:15
3."Don't Stop the Music"Stargate4:27
4."Breakin' Dishes"
  • Stewart
  • Nash
  • Stewart
  • Harrell[a]
3:20
5."Shut Up and Drive"
  • Rogers
  • Sturken
3:33
6."Hate That I Love You" (hợp tác với Ne-Yo)
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:38
7."Say It"
4:10
8."Sell Me Candy"
2:46
9."Lemme Get That"
  • Nash
  • Mosley
  • Carter
  • Timbaland
  • Nash[a]
3:41
10."Rehab"
  • Timbaland
  • Lane[b]
  • Timberlake[a]
4:54
11."Question Existing"
4:06
12."Good Girl Gone Bad"
3:33
13."Disturbia"
3:58
14."Take a Bow"
  • Smith
  • Eriksen
  • Hermansen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:49
15."If I Never See Your Face Again" (với Maroon 5)3:18
Tổng thời lượng:57:03
Phiên bản có những video âm nhạc kèm theo được phát hành trên iTunes Store tại Hoa Kỳ và Canada[87][88]
STTNhan đềThời lượng
16."Take a Bow" (video âm nhạc)3:49
17."Don't Stop the Music" (video âm nhạc)3:53
Tổng thời lượng:64:45
Các bài hát bổ sung trong phiên bản phát hành tại châu Á[89]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
16."Take a Bow" (phiên bản tiếng Quảng Châu) (hợp tác với Trương Kính Hiên)
  • Smith
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:41
17."Hate That I Love You" (phiên bản tiếng Quan thoại) (hợp tác với Trương Kính Hiên) 
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:43
Tổng thời lượng:64:24
Bài hát bổ sung trong phiên bản phát hành tại Trung Quốc[90]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
16."Take a Bow" (Mandarin Mix (phiên bản phối khí tiếng Quan thoại) (hợp tác với Trương Kính Hiên)
  • Smith
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:43
Tổng thời lượng:60:44
Phiên bản phát hành tại Anh Quốc, Ireland và Úc[91][92]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Cry"
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Dabney
Stargate3:55
14."Disturbia"
  • Seal
  • Brown
  • Allen
  • Merritt
  • Kennedy
  • Riddick[a]
3:58
15."Take a Bow"
  • Smith
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:49
16."If I Never See Your Face Again" (với Maroon 5)
  • Levine
  • Valentine
  • Endert
  • Elizondo
  • Stent
  • Stewart
  • Maroon 5
3:18
Tổng thời lượng:60:58
Các bài hát bổ sung trong phiên bản cao cấp tại Anh Quốc và Úc và phiên bản được phát hành trên iTunes Store ở Ireland[93][94][95][96]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Umbrella" (hợp tác với Jay-Z) (Seamus Haji & Paul Emanuel Remix)
  • Stewart
  • Nash
  • Harrell
  • Carter
  • Stewart
  • Harrell[a]
  • Seamus
  • Haji[c]
  • Paul
  • Emanuel[c]
6:27
2."Breakin' Dishes" (Soul Seekerz Remix)
  • Stewart
  • Nash
6:36
3."Don't Stop the Music" (The Wideboys Club Mix)
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Dabney
  • Jackson
  • Stargate
  • The Wideboys[c]
6:04
4."Question Existing" (The Wideboys Club Mix)
  • Smith
  • Taylor
  • Carter
6:37
5."Hate That I Love You" (featuring Ne-Yo) (K-Klassic Remix)
  • Smith
  • Hermansen
  • Eriksen
6:12
6."Push Up on Me" (Moto Blanco Club Mix)
  • Rotem
  • Riddick
  • Richie
  • Weil
7:41
7."Good Girl Gone Bad" (Soul Seekerz Remix)
  • Smith
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Marlin
6:37
8."Haunted" (Steve Mac Classic Mix)
  • Rogers
  • Sturken
6:35
9."Say It" (Soul Seekerz Remix)
  • Riddick
  • Atkinson
  • Brown
  • Dillon
  • Dunbar
  • Thompson
  • Neo da Matrix
  • Riddick[a]
  • Soul Seekerz[c]
6:25
10."Cry" (Steve Mac Classic Mix)
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Dabney
  • Stargate
  • Steve Mac[c]
5:48
11."S.O.S." (Digital Dog Remix)7:23
Phiên bản được phát hành tại Nhật[97][98]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Cry"
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Dabney
Stargate3:55
14."Haunted"
  • Rogers
  • Sturken
  • Rogers
  • Sturken
4:09
15."Disturbia"
  • Seals
  • Brown
  • Allen
  • Merritt
  • Kennedy
  • Riddick[a]
3:58
16."Take a Bow"
  • Smith
  • Eriksen
  • Hermansen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:49
17."If I Never See Your Face Again" (với Maroon 5)
  • Levine
  • Valentine
  • Endert
  • Elizondo
  • Stent
  • Stewart
  • Maroon 5
3:18
Tổng thời lượng:65:07
Phiên bản được phát hành tại Mĩ Latinh[99]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Hate That I Love You" (Phiên bản Spanglish) (hợp tác với David Bisbal)
  • Smith
  • Hermansen
  • Eriksen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:42
14."Disturbia"
  • Seals
  • Brown
  • Allen
  • Merritt
  • Kennedy
  • Riddick[a]
3:58
15."Take a Bow"
  • Smith
  • Eriksen
  • Hermansen
  • Stargate
  • Ne-Yo[a]
3:49
16."If I Never See Your Face Again" (với Maroon 5)
  • Levine
  • Valentine
  • Endert
  • Elizondo
  • Stent
  • Stewart
  • Maroon 5
3:18
Tổng thời lượng:60:42
Các bài hát được bổ sung trên Spotify[100]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
16."Take a Bow" (Seamus Haji & Paul Emanuel Radio)
  • Smith
  • Eriksen
  • Hermansen
3:58
17."Take a Bow" (Groove Junkies MoHo Radio)
  • Smith
  • Eriksen
  • Hermansen
3:51
18."Disturbia" (Jody Den Broeder Remix)
  • Seals
  • Brown
  • Allen
  • Merritt
  • Kennedy
  • Riddick[a]
  • Jody Den Broeder[c]
7:43
Tổng thời lượng:60:58
Phiên bản có những video âm nhạc kèm theo được phát hành trên iTunes Store[101]
STTNhan đềThời lượng
1."Umbrella" (video âm nhạc)4:12
2."Shut Up and Drive" ((đã chỉnh sửa) (video âm nhạc)4:07
3."Don't Stop the Music" (video âm nhạc)4:00
4."Hate That I Love You" (video âm nhạc)4:48
5."Take a Bow" (video âm nhạc)3:49
6."Disturbia" ((đã chỉnh sửa) (video âm nhạc)4:29
7."Rehab" (video âm nhạc)4:45
8."Rehab" (Biểu diễn trực tiếp ở Manchester Arena, Anh Quốc, ngày 6 tháng 12 năm 2007)3:30
Chú thích
  • ^a biểu thị nhà sản xuất giọng hát
  • ^b biểu thị người đồng sản xuất
  • ^c biểu thị remixer và người đồng sản xuất
  • "Push Up on Me" sample lại ca khúc "Running with the Night", do Lionel RichieCynthia Weil sáng tác và do Richie trình bày.
  • "Don't Stop the Music" sở hữu một đoạn lời giống với ca khúc "Wanna Be Startin' Somethin'", do Michael Jackson sáng tác và trình bày.
  • "Shut Up and Drive" sample lại ca khúc "Blue Monday", do ban nhạc New Order sáng tác và trình bày.
  • "Say It" sample lại ca khúc "Flex", do Ewart Brown, Clifton Dillon, Sly Dunbar và Brian Thompson sáng tác và do Mad Cobra trình bày.

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
New Zealand (RMNZ)[79] Bạch kim 15.000^
Thụy Điển (GLF)[110] Vàng 20.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Ngày phát hành Định dạng Hãng đĩa
Úc Úc[12] 2 tháng 6 năm 2008 (2008-06-02) Tải kỹ thuật số Def Jam
Cộng hòa Ireland Ireland[13]
New Zealand New Zealand[14]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc[15]
Đức Đức[16] 13 tháng 6 năm 2008 (2008-06-13) CD Universal
Canada Canada[17] 17 tháng 6 năm 2008 (2008-06-17)
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc[18] Mercury
Hoa Kỳ Hoa Kỳ[19][20][111] CD, CD/DVD, LP Def Jam

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chú
  1. ^ Dẫn theo wikipedia tiếng Anh: Hook là một thành phần trong một bài hát, thường đóng vai trò làm một đoạn riff, một cụm từ hay một đoạn lời được sử dụng trong nhạc đại chúng và làm cho một bài hát hấp dẫn hay "bắt tai người nghe". Trong nhạc đại chúng, hook có thể được tìm thấy, hoặc bao gồm phần điệp khúc của bài hát.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l Ở các quốc gia này, người ta gộp chung hai album Good Girl Gone Bad: ReloadedGood Girl Gone Bad thành một để xếp hạng.
Chú thích
  1. ^ Birchmeier, Jason. “Rihanna”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  2. ^ Hope, Clover (9 tháng 6 năm 2007). “The Billboard Reviews”. Billboard. New York. 119 (23): 63. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018. solid pop/R&B effort
  3. ^ Moss, Corey (27 tháng 2 năm 2007). “Rihanna Gets Voice Lessons From Ne-Yo For 'Fresh, Uptempo' New Tracks”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ 4 tháng 1 năm 2009. Truy cập 17 tháng 8 năm 2017.
  4. ^ “Rihanna – Official Charts Company”. Official Charts Company. Bản gốc (chọn tab "View Albums") lưu trữ 10 tháng 1 năm 2011. Truy cập 29 tháng 10 năm 2017.
  5. ^ “Rihanna Album & Song Chart History: Billboard 200”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 29 tháng 10 năm 2017.
  6. ^ “Good Girl Gone Bad Reviews, Ratings, Credits, and More at Metacritic”. Metacritic. CBS. 5 tháng 6 năm 2007. Truy cập 16 tháng 4 năm 2017.
  7. ^ Cohen, Jonathan (12 tháng 7 năm 2007). “Rihanna's 'Umbrella' Reigns Again On Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 14 tháng 4 năm 2017.
  8. ^ “Rihanna's 'Umbrella' longest running No 1 song for a decade”. Mail Online.
  9. ^ a b c Rodriguez, Jayson (14 tháng 3 năm 2008). “Rihanna Chooses 'Take A Bow,' Penned By Ne-Yo, To Kick Off Good Girl Gone Bad Re-Release”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2020. Truy cập 12 tháng 10 năm 2018.
  10. ^ “New Music: Rihanna – 'Take A Bow'. Rap-Up. Devine Lazerine. 14 tháng 3 năm 2008. Truy cập 12 tháng 10 năm 2016.
  11. ^ a b “Rihanna Reloaded on MTV's TRL'. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập 8 tháng 4 năm 2016.
  12. ^ a b “Music – Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. iTunes Store (AU). Apple. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  13. ^ a b “Music – Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. iTunes Store (IE). Apple. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  14. ^ a b “Music – Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. iTunes Store (NZ). Apple. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  15. ^ a b “Music – Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. iTunes Store (GB). Apple. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  16. ^ a b “Good Girl Gone Bad (Reloaded)” (bằng tiếng Đức). Amazon.com (DE). Amazon Inc. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  17. ^ a b “Good Girl Gone Bad Reloaded”. Amazon.com (CA). Amazon Inc. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  18. ^ a b “Good Girl Gone Bad: Reloaded”. Amazon.com (UK). Amazon Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  19. ^ a b “Good Girl Gone Bad (Reloaded)”. Amazon.com (US). Amazon Inc. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  20. ^ a b “Good Girl Gone Bad (Reloaded)”. Amazon.com (US). Amazon Inc. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  21. ^ “Rihanna 'Reloaded' Album Release Party”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập 9 tháng 4 năm 2016.
  22. ^ a b McAlpine, Fraser (ngày 15 tháng 8 năm 2008). “Rihanna – 'Disturbia'. BBC Music. BBC. Truy cập 25 tháng 9 năm 2017.
  23. ^ a b Flethcher, Alex (8 tháng 6 năm 2008). “Maroon 5 & Rihanna: If I Never See Your Face Again”. Digital Spy. Hachette Filipacchi Médias. Truy cập 28 tháng 1 năm 2016.
  24. ^ “Good Girl Gone Bad Celebrates 1 Year of Success on Charts”. Universal Music Group. Bản gốc lưu trữ 17 tháng 5 năm 2008. Truy cập 12 tháng 4 năm 2017.
  25. ^ “New Music: Rihanna f/ The Dream – Hatin' on the Club”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập 12 tháng 4 năm 2017.
  26. ^ Fletcher, Alex (24 tháng 12 năm 2008). “Rihanna: 'Disturbia'. Digital Spy. Hachette Filipacchi Médias. Truy cập 17 tháng 9 năm 2017.
  27. ^ Lipshutz, Jason (28 tháng 2 năm 2013). “20 Hit Songs Meant For Other Singers”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 14 tháng 5 năm 2013.
  28. ^ a b c Good Girl Gone Bad: Reloaded (Compact Disc). Rihanna. Def Jam Recordings. 2008. B0011360-00.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  29. ^ Fekadu, Mesfin (14 tháng 8 năm 2008). “Chris Brown upset over leak of unfinished song”. USA Today. Gannett Company, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2009. Truy cập 25 tháng 9 năm 2017.
  30. ^ Drumming, Neil (18 tháng 5 năm 2007). “It Won't Be Soon Before Long”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập 28 tháng 1 năm 2016.
  31. ^ Montgomery, James (24 tháng 4 năm 2008). “Rihanna, Maroon 5 Team Up For 'Magic' Collaboration, Complete With Ultra-Glam Video”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2021. Truy cập 28 tháng 1 năm 2016.
  32. ^ Levine, Nick (19 tháng 5 năm 2008). “Rihanna: 'Take A Bow'. Digital Spy. Hachette Filipacchi Médias. Truy cập 14 tháng 10 năm 2016.
  33. ^ Crosley, Hillary (14 tháng 3 năm 2008). “Rihanna Re-Releases "Good Girl" With New Ne-Yo Track”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 14 tháng 3 năm 2018.
  34. ^ “Rihanna – Take A Bow”. iTunes Store (US). Apple. Bản gốc lưu trữ 17 tháng 2 năm 2013. Truy cập 8 tháng 4 năm 2017.
  35. ^ a b c Pietroluongo, Silvio. “Rihanna's 'Bow' Soars 52 Spots To Lead Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 8 tháng 4 năm 2017.
  36. ^ Trust, Gary (23 tháng 6 năm 2015). “Ask Billboard: Rihanna's Best-Selling Songs & Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 23 tháng 6 năm 2017.
  37. ^ “Gold & Platinum: Searchable Database”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập 14 tháng 4 năm 2017.
  38. ^ “Rihanna Album & Song Chart History: Billboard Canadian Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 29 tháng 10 năm 2017.
  39. ^ “Rihanna – Take A Bow – danishcharts.com”. Danish Singles Chart. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập 16 tháng 10 năm 2017.
  40. ^ “GFK Chart-Track”. Irish Singles Chart. Hiệp hội thu âm nhạc Ireland. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập 14 tháng 4 năm 2017.
  41. ^ “Hitparáda – Radio Top100 Oficiálna”. IFPI Czech Republic. Note: insert 200823 into search. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 1 năm 2007. Truy cập 14 tháng 4 năm 2017.
  42. ^ “Rihanna – Official Charts Company”. Official Charts Company. Bản gốc (chọn tab "View Singles") lưu trữ 10 tháng 1 năm 2011. Truy cập 29 tháng 10 năm 2017.
  43. ^ Vena, Jocelyn (3 tháng 10 năm 2009). “Rihanna's New Album, Rated R, Drops November 23”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập 8 tháng 4 năm 2017.
  44. ^ “Rihanna & David Bisbal – Hate That I Love You (Spanglish Version) – Single”. iTunes Store (AR). Apple. Truy cập 5 tháng 1 năm 2016.
  45. ^ “Rihanna & David Bisbal – Hate That I Love You (Spanglish Version) – Single”. iTunes Store (BR). Apple. Truy cập 5 tháng 1 năm 2016.
  46. ^ “Rihanna & David Bisbal – Hate That I Love You (Spanglish Version) – Single”. iTunes Store (ES). Apple. Truy cập 5 tháng 1 năm 2016.
  47. ^ “spanishcharts.com – Rihanna feat. David Bisbal – Hate That I Love You”. Spanish Singles Chart. Hung Medien. Truy cập 9 tháng 4 năm 2016.
  48. ^ a b “FMQB: Available for airplay”. FMQB. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 12 năm 2005. Truy cập 8 tháng 4 năm 2016.
  49. ^ Lynskey, Dorian (3 tháng 5 năm 2008). “Sweetness and steel”. The Guardian. Guardian News and Media. Truy cập 29 tháng 1 năm 2016.
  50. ^ a b Reed, Shaheem (11 tháng 2 năm 2009). “L.A. Reid Says He's 'Loaded' With Music For Rihanna's Next Album”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2021. Truy cập 26 tháng 9 năm 2016.
  51. ^ “CD Single: Rihanna – 'Disturbia'. Amazon.com (UK). Amazon Inc. Truy cập 8 tháng 4 năm 2016.
  52. ^ Daily Mail Reporter (18 tháng 1 năm 2009). “Katy Perry lights up the NRJ Awards in a white suit... but is left red-faced after picking up Rihanna's award”. Daily Mail. Associated Newspapers Ltd. Truy cập 8 tháng 4 năm 2016.
  53. ^ “Discografie Rihanna” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập 9 tháng 10 năm 2016.
  54. ^ “Discography Rihanna”. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2018. Truy cập 1 tháng 4 năm 2016.
  55. ^ a b c Cohen, Jonathan (14 tháng 8 năm 2008). “Rihanna Topples Katy Perry On Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 8 tháng 3 năm 2016.
  56. ^ “Video: Rihanna – 'Disturbia'. Rap-Up. Devine Lazerine. 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập 21 tháng 8 năm 2016.
  57. ^ “Rihanna's Single And Album Covers Through The Years”. Capital FM. Truy cập 22 tháng 5 năm 2016.
  58. ^ “Video: MuchMusic Awards '08 Performances”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập 9 tháng 4 năm 2017.
  59. ^ a b “Video: Rihanna on 'TODAY Concert Series'. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập 9 tháng 4 năm 2017.
  60. ^ “T.I. and Rihanna on 'FNMTV' Tonight”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập 9 tháng 4 năm 2017.
  61. ^ “David Bisbal y Rihanna juntos en Operación triunfo”. People en Español (bằng tiếng Tây Ban Nha). Time Inc. 9 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập 9 tháng 4 năm 2017.
  62. ^ “Britney Spears returns to MTV Video Music Awards”. The Sydney Morning Herald. Fairfax Media. 8 tháng 9 năm 2008. Truy cập 18 tháng 8 năm 2016.
  63. ^ Doherty, Ruth (8 tháng 9 năm 2008). “Britney Spears picks up three MTV Video Music Awards”. Marie Claire. Hearst Communication, Inc. Truy cập 29 tháng 8 năm 2016.
  64. ^ “Kanye West, Paramore rock the MTV Awards”. NME. IPC Media. 8 tháng 9 năm 2008. Truy cập 29 tháng 8 năm 2016.
  65. ^ “La Star Academy booste les ventes de Rihanna!” (bằng tiếng Pháp). NewsDeStars. 25 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ 16 tháng 8 năm 2012. Truy cập 30 tháng 9 năm 2016.
  66. ^ Kaufman, Gil (30 tháng 1 năm 2009). “Rihanna, Fall Out Boy Kick Off Super Bowl Weekend With Pepsi Smash Show”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2015. Truy cập 20 tháng 6 năm 2016.
  67. ^ “Good Girl Gone Bad: Rihanna (Def Jam Records)”. The National. Mubadala Development Company. 27 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập 11 tháng 4 năm 2016.
  68. ^ D, Spence (17 tháng 6 năm 2008). “Rihanna – Good Girl Gone Bad: Reloaded”. IGN. Ziff Davis. Truy cập 11 tháng 4 năm 2016.
  69. ^ Keyes, J. Edward (16 tháng 11 năm 2008). “Rihanna, Good Girl Gone Bad: Reloaded”. eMusic. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  70. ^ a b Levine, Nick (10 tháng 6 năm 2008). “Rihanna: 'Good Girl Gone Bad Reloaded'. Digital Spy. Hachette Filipacchi Médias. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  71. ^ “Grammy 2009 Winners List”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  72. ^ a b c Grein, Paul. “Week Ending ngày 22 tháng 6 năm 2008: Coldplay On A Hot Streak”. Chart Watch. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập 10 tháng 4 năm 2017.
  73. ^ a b “R&B/ Hip-Hop”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 120: 46. 2003. ISSN 0006-2510.
  74. ^ Grein, Paul. “Week Ending ngày 6 tháng 7 năm 2008: Kid Rock And The Resurrection Of 'Jesus'. Chart Watch. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập 10 tháng 4 năm 2016.
  75. ^ Grein, Paul. “Week Ending ngày 20 tháng 7 năm 2008: Nas, The N-Word And Number One”. Chart Watch. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập 10 tháng 4 năm 2016.
  76. ^ Trust, Gary (1 tháng 12 năm 2012). “Weekly Chart Notes: Even Before Her First Billboard No. 1, Rihanna Shined Like A Diamond”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 8 tháng 12 năm 2017.
  77. ^ a b “Canadian Albums: Jul 05, 2008”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  78. ^ “NZ Top 40 Albums”. New Zealand Albums Chart. RIANZ. Truy cập 10 tháng 4 năm 2016.
  79. ^ a b c “NZ Top 40 Albums Chart”. New Zealand Albums Chart. RIANZ. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  80. ^ a b “Official Albums Chart Top 100: ngày 8 tháng 6 năm 2008 - ngày 14 tháng 6 năm 2008”. UK Albums Chart. Official Charts Company. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  81. ^ “Official Albums Chart Top 100: ngày 15 tháng 6 năm 2008 - ngày 21 tháng 6 năm 2008”. UK Albums Chart. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập 1 tháng 11 năm 2018.
  82. ^ Lane, Dan (26 tháng 6 năm 2012). “Rihanna racks up 20 million record sales in the UK!”. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2012. Truy cập 26 tháng 6 năm 2016.
  83. ^ a b “Rihanna – Good Girl Gone Bad” (bằng tiếng Đan Mạch). Danish Albums Chart. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  84. ^ a b “Rihanna – Good Girl Gone Bad” (bằng tiếng Đức). Swiss Albums Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  85. ^ a b “Rihanna – Good Girl Gone Bad” (bằng tiếng Đức). Austrian Albums Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  86. ^ “Chart Watch Extra: Gaga's Nice Round Number – Chart Watch”. Chart Watch. Yahoo! Music. 23 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 7 năm 2010. Truy cập 24 tháng 2 năm 2017.
  87. ^ “iTunes - Music - Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 8 năm 2013. Truy cập 28 tháng 8 năm 2016.
  88. ^ “iTunes - Music - Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. Bản gốc lưu trữ 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập 8 tháng 12 năm 2016.
  89. ^ “Good Girl Gone Bad (Reloaded) (Cantonese)”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập 10 tháng 4 năm 2016.
  90. ^ “Bìa album Good Girl Gone Bad: Reloaded”. bp.blogsport. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
  91. ^ “Good Girl Gone Bad (Reloaded) (UK Edition)”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập 10 tháng 4 năm 2016.
  92. ^ “iTunes - Music - Good Girl Gone Bad: Reloaded by Rihanna”. iTunes.
  93. ^ “iTunes – Music – Good Girl Gone Bad (Deluxe) by Rihanna”. iTunes Store. Truy cập 31 tháng 3 năm 2016.
  94. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  95. ^ “iTunes – Music – Good Girl Gone Bad (Deluxe) by Rihanna”. iTunes Store. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 4 năm 2015. Truy cập 31 tháng 3 năm 2016.
  96. ^ “iTunes – Music – Good Girl Gone Bad (Deluxe) by Rihanna”. iTunes Store. Truy cập 24 tháng 6 năm 2016.
  97. ^ “グッド・ガール・ゴーン・バッド+3[通常盤] 【CD】”. UNIVERSAL MUSIC. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  98. ^ “グッド・ガール・ゴーン・バッド+3”. Amazon.co.jp. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  99. ^ “Good Girl Gone Bad (Reloaded) (Latin)”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  100. ^ “Good Girl Gone Bad Reloaded”. Spotify. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  101. ^ “Good Girl Gone Bad - The Videos”. iTunes. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  102. ^ “Rihanna – Good Girl Gone Bad” (bằng tiếng Hà Lan). Belgian Albums Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  103. ^ “Rihanna – Good Girl Gone Bad (Wallonia)” (bằng tiếng Pháp). Belgian Albums Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  104. ^ “Top of the Shops – official weekly list of albums sold in Croatia”. Croatian International Album Chart. HDU. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  105. ^ “Longplay-Chartverfolgung at Musicline”. Musicline.de. Media Control. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  106. ^ “Rihanna – Good Girl Gone Bad (Album)” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Albums Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  107. ^ “Irish Music Charts Archive: Top 75 Artist Album, Week Ending ngày 12 tháng 6 năm 2008”. GFK Chart-Track. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  108. ^ “Billboard 200: Jul 05, 2008”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  109. ^ “Top Selling Albums of 2008”. New Zealand Albums Chart. RIANZ. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  110. ^ a b “Årslista Album - År 2008 ích”. Swedish Albums Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  111. ^ “Rihanna: Good Girl Gone Bad: Reloaded”. Amazon.com. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Thời điểm “vàng” để giáo dục giới tính cho trẻ
Thời điểm “vàng” để giáo dục giới tính cho trẻ
Khi nói chuyện với con về chủ đề giới tính và tình dục, ba mẹ hãy giải thích mọi thứ phù hợp với độ tuổi, khả năng tiếp thu của con
Review game Kena: Bridge of Spirits
Review game Kena: Bridge of Spirits
Kena: Bridge of Spirits là một tựa game indie được phát triển bởi một studio Mỹ mang tên Ember Lab - trước đây là một hãng chuyên làm phim hoạt hình 3D và đã rất thành công với phim ngắn chuyển thể từ tựa game huyền thoại Zelda
Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
BoJ đã chính thức trở thành ngân hàng cuối cùng trên thế giới nới lỏng chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo khi quốc gia này đang phải đối mặt với hàng thập kỷ giảm phát.
Blue Period - Bộ Anime truyền động lực và cảm hứng
Blue Period - Bộ Anime truyền động lực và cảm hứng
Bộ phim kể về Yutaro - nhân vật chính, một cậu học sinh cấp 3 "học giỏi, chơi giỏi" nhưng tất cả những điều đó chỉ khiến cậu ta càng thêm trống rỗng và cảm thấy cuộc sống thật nhàm chán và vô vị