Loud (album của Rihanna)

Loud
Một bức hình chụp cận mặt Rihanna với mái tóc đỏ gợn sóng, cả hai mắt cô đều nhắm nghiền và đôi môi của cô được tô son màu đỏ tươi. Phía dưới ảnh bìa có chữ "LOUD" được viết bằng phông chữ màu trắng.
Album phòng thu của Rihanna
Phát hành12 tháng 11 năm 2010 (2010-11-12)
Thu âmTháng 2–tháng 8 năm 2010
Thể loại
Thời lượng46:39
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Rihanna
Rated R: Remixed
(2010)
Loud
(2010)
Talk That Talk
(2011)
Đĩa đơn từ Loud
  1. "Only Girl (In the World)"
    Phát hành: 10 tháng 9 năm 2010 (2010-09-10)
  2. "What's My Name?"
    Phát hành: 25 tháng 10 năm 2010 (2010-10-25)
  3. "Raining Men"
    Phát hành: 7 tháng 12 năm 2010 (2010-12-07)
  4. "S&M"
    Phát hành: 23 tháng 1 năm 2011 (2011-01-23)
  5. "Man Down"
    Phát hành: 3 tháng 5 năm 2011 (2011-05-03)
  6. "California King Bed"
    Phát hành: 13 tháng 5 năm 2011 (2011-05-13)
  7. "Cheers (Drink to That)"
    Phát hành: 2 tháng 8 năm 2011 (2011-08-02)

Loud là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna, được hãng đĩa Def Jam Recordings và SRP Records phát hành lần đầu vào ngày 12 tháng 11 năm 2010. Ý tưởng thực hiện album bắt nguồn từ việc Rihanna muốn quay trở lại với phong cách vui vẻ, sôi động và tràn đầy năng lượng đối nghịch với Rated R. Nữ ca sĩ và giám đốc hãng thu âm L.A. Reid đã hợp tác và cùng nhau thành lập đội ngũ gồm nhiều nhà sản xuất thu âm như Stargate, Sandy Vee, The Runners, Tricky StewartAlex da Kid để thực hiện sáng tác album tại các phòng thu âm ở Los Angeles do Def Jam phụ trách thuê gần như toàn bộ. Quá trình thu âm cho Loud được thực hiện từ tháng 2 cho đến tháng 8 năm 2010 trong lúc Rihanna vẫn còn đang thực hiện chuyến lưu diễn Last Girl on Earth (2010–11) và ghi hình Chiến hạm (2012).

Loud là một nhạc phẩm thuộc thể loại dance-popR&B với chủ đề khác biệt so với sản phẩm trước Rated R (2009) của Rihanna là tông màu điềm gở, giận dữ cũng như chủ đề đen tối. Trong album Loud, các bài hát đều mang tiết tấu nhanh và quay trở lại phong cách âm thanh trong trẻo và lạc quan đến từ hai album đầu tiên của Rihanna là Music of the Sun (2005) và A Girl Like Me (2006). Ngoài ra, những yếu tố thể loại phụ còn góp mặt trong album như rock ở bài "California King Bed" và reggae ở bài "Man Down" gợi cảm hứng Caribbean. Loud sự tham gia góp giọng từ các rapper như Drake, Nicki MinajEminem. Trước đó Eminem đã hợp tác với Rihanna trong "Love the Way You Lie", thì lần này nam rapper hợp tác cùng nữ ca sĩ dưới dạng khách mời thông qua phần kế tiếp "Love the Way You Lie (Part II)".

Các cây bút phê bình âm nhạc đã dành cho Loud những đánh giá nhìn chung là tích cực. Họ khen ngợi chất liệu sôi động của đĩa nhạc cũng như giọng hát khỏe khoắn của Rihanna. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng mặc dù bài hát nghe ổn nhưng lại rời rạc chủ đề lẫn nhau. Loud đã đạt được thành công về mặt thương mại trên thế giới. Sản phẩm mở màn ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Billboard 200 Hoa Kỳ với doanh số tuần đầu đạt 207.000 bản, cao nhất sự nghiệp của Rihanna tại thời điểm đó. Loud đã vươn tới vị trí số một ở các bảng xếp hạng tại Canada, Thụy SĩAnh Quốc. Theo Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI), Loud là album bán chạy thứ tám trên toàn cầu vào năm 2011. Đến tháng 11 năm 2011, Loud đã bán được tổng cộng 8 triệu bản trên toàn thế giới.

Rihanna đã phát hành tổng cộng 7 đĩa đơn cho Loud, trong số đó có các bản hit quốc tế như "Only Girl (In the World)", "What's My Name?" và "S&M". Ba đĩa đơn vừa kể trên leo lên ngôi quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ. Đĩa đơn mở đường "Only Girl (In the World)" giành được giải Grammy cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhấtLoud nhận về ba đề cử giải Grammy gồm có Album của năm. Để quảng bá album, Rihanna thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ ba của cô mang tựa đề Loud Tour. Về sau, nhiều ấn phẩm đã xếp Loud vào các danh sách album hàng đầu và tán tương tính biểu tượng của album không chỉ thành công về mặt thương mại mà còn ở chủ đề.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàn cảnh ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau sự việc Rihanna bị bạn trai cũ của mình là nghệ sĩ giải trí người Mỹ Chris Brown hành hung, nhiều phương tiện truyền thông đại chúng đã dự đoán rằng trong album phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ sẽ có một hoặc nhiều bài hát nói về Brown. Nam ca sĩ kiêm nhà sản xuất âm nhạc Ne-Yo đính chính rằng Rihanna sẽ không làm nhạc về vụ việc trong album mới.[1] Album Rated R được lên kệ vào tháng 11 năm 2009 mang đậm màu sắc pop[2] lẫn R&B,[3] và pha trộn cùng với những yếu tố thể loại hip-hop, dancehall[4]rock.[5] Rated R đã từng đạt được thành công thương mại, trong các đĩa đơn của album thì có một bản hit quốc tế mang tựa đề "Rude Boy".[6] Sau khoảng thời gian phát hành và quảng bá Rated R, Rihanna bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ năm và cam kết rằng nhạc phẩm mới của cô sẽ "ngổ ngáo, vui nhộn, cửa cẩm và tràn đầy năng lượng".[7] Tor Erik Hermansen của đội ngũ Stargate bảo rằng "Rihanna đã tìm đến chúng tôi trước khi bắt đầu thu âm 'Only Girl (In the World)' và nói 'Tôi cảm thấy chính mình thật tuyệt. Tôi muốn quay trở lại với niềm vui sướng, tôi muốn làm các bản thu vui vẻ và sôi động'." Hermansen cho biết thêm, tác phẩm liền trước phần nhịp của Rated R không được mang tiết tấu nhanh.[8]

Tháng 3 năm 2010, nhà sản xuất Sean Garrett đã xác nhận thông tin Rihanna thực hiện album mới và bật mí đây sẽ là "một bản thu âm tuyệt vời trên đài phát thanh", đồng điệu hơn với các bản phát hành trước đó như "Umbrella" và thậm chí cả đĩa đơn "Rude Boy" mới nhất của nữ ca sĩ.[9] Tháng 6 năm 2010, Garrett khẳng định rằng album Loud của Rihanna sẽ mang chất âm nghe "thú vị và vui vẻ hạnh phúc hơn" tương tự với đĩa đơn "Pon de Replay", và những bài hát mà họ làm việc cùng nhau sẽ "lạc quan và bùng nổ" cũng như "nặng nề [về phần nhịp nhạc] trong câu lạc bộ."[10] Trong một cuộc phỏng vấn với MTV Anh, phó chủ tịch hãng đĩa Def Jam Bu Thiam đã phát biểu rằng album kế tiếp của Rihanna có thể giống như một trong những album bán chạy nhất thế giới Thriller của Michael Jackson, "Rihanna tiến bộ [trong âm nhạc] đến đáng kinh. Tôi đang cố gắng thúc đẩy cô ấy đạt đến cảnh giới là mỗi bài hát [trong album] đều sẽ là một bản hit từ bài số 1 cho đến 12. Tôi sẽ nói KHÔNG với những bài hát chỉ mang tính chất nhồi nhét vào album cho đủ (album fillers). Thước đo của chúng tôi cho album lần này đó chính là Thriller của Michael Jackson." Thiam tiếp tục cho biết Rihanna đã có sẵn các ý tưởng hình ảnh cho mọi bài hát, "Điều đó đã mang đến cho tôi cảm xúc của một album trường tồn theo thời gian."[11]

Sáng tác và thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]
"Tôi đã thu âm hết cho album rồi. Tôi đảm bảo là sẽ không làm cho các bạn thất vọng với âm nhạc của tôi đâu! Các bạn đã luôn luôn bao bọc che chở tôi, cho nên bây giờ các bạn cũng sẽ được [tôi] báo đáp bằng một vài bản nhạc hay. Tôi không muốn phải cải lùi và làm lại Good Girl Gone Bad [của những năm 2007]. Tôi muốn bước kế tiếp cho sự tiến hoá của Rihanna, và điều đó sẽ thật hoàn hảo cho chúng ta."

—Rihanna bàn về dự kiến cho album Loud trên Rihannadaily.com.[7]

Khoảng đầu năm 2010, Rihanna đã hợp tác cùng giám đốc hãng thu âm Def Jam Antonio "L.A." Reid để thành lập một đội ngũ hơn 50 nhà sáng tác chuyên nghiệp gồm 27 tác giả viết lời, nhạc sĩ, ca sĩ hát nháp thu thử và 32 nhà sản xuất thu âm. Họ đảm nhận công việc tại hầu hết phòng thu lớn bên thành phố Los Angeles do hãng đĩa Def Jam thuê lại gần như toàn bộ để độc quyền viết nhạc album mới trong vòng hai tuần cho nữ ca sĩ.[a][13][14][15] Ban quản lý của nhóm nhạc hai người R. City (hai anh em Theron và Timothy Thomas), Ray Daniels, đã góp mặt trong các buổi làm việc và bật mí rằng: Hãng đĩa của Rihanna đã chi ra lên đến 25.000 đô la Mỹ mỗi ngày để tổ chức một "doanh trại" sáng tác nhạc bằng cách thuê mười phòng thu âm trong hai tuần (tổng ít nhất là 200.000 đô la Mỹ). Daniels còn bảo đó là một nơi mà các nhạc sĩ có lời mà không có nhạc, còn những nhà sản xuất thì có nhạc nhưng lại không có lời.[16] Bên cạnh Los Angeles, "doanh trại" sáng tác nhạc cho Loud còn được diễn ra ở Miami. Mặc dù Rihanna hiếm khi tham gia sáng tác bài hát nhưng cô vẫn giữ vai trò trong việc chỉ đạo các ý tưởng trong album Loud cũng như bố trí đội ngũ.[12] Sau thời gian đó, nhóm đội ngũ tác giả đã sáng tác và sản xuất khoảng 200 bài hát cho Rihanna, nhưng chỉ có những bài hay nhất trong số đó là được chọn đưa vào album Loud.[14]

Quá trình thu âm Loud được diễn ra từ tháng 2 năm 2010 cho đến tháng 8 cùng năm, và đây là khoảng thời gian Rihanna còn thực hiện chuyến lưu diễn Last Girl on Earth cũng như ghi hình bộ phim mà nữ ca sĩ góp mặt đầu tiên, Chiến hạm (2012).[17][18] Theo phần ghi chú, album Loud được thực hiện thu âm tại nhiều phòng thu khác nhau trên toàn thế giới: Larrabee Sound Studios, The VillageWestlake Recording Studios bên Los Angeles; Platinum Sound Recording Studios và Roc the Mic Studios bên thành phố New York; và The Bunker Studios tại Paris.[19] Các nhạc sĩ và nhà sản xuất như Taio Cruz,[20] Alex da Kid,[21] Sean Garrett,[22] Ne-Yo,[23] Rico Love, Timbaland,[24] Shontelle,[25] David Guetta[26]Drake[27] đều tham gia xây dựng album Loud. Trong đó, "DJ Got Us Fallin' in Love" vốn ban đầu được giao cho Rihanna nhưng bài hát bị từ chối và chuyển sang giao cho Usher.[14] Nhạc sĩ Ester Dean, trước đó đã hợp tác viết "Rude Boy" cho Rihanna, đã nhận xét một điểm mạnh của nữ ca sĩ trong quá trình thu âm rằng "cô ấy không cố gắng hát giống giọng bạn; cô ấy hát giống giọng chính mình. Cô ấy không đến đó để tìm cách đánh bại bạn khi hát bài hát của bạn. Cô ấy bước vào đó và nói, 'Tôi sẽ hát bài hát này vì tôi rất thích nó.'"[12] Sau khi Rihanna phát cho Drake nghe bản thu hoàn chỉnh của "What's My Name?", nữ ca sĩ nhận thấy Drake có thể hiểu được giai điệu của bài hát nên cô đã mời anh tham gia góp giọng, và nam rapper đã đồng ý thực hiện.[28] Bài hát hợp tác giữa Rihanna và Drake lúc đầu được dự định phát hành dưới dạng phiên bản phối lại, nhưng đến cuối cùng thì được quyết định chọn làm phiên bản gốc.[29]

Chủ đề

[sửa | sửa mã nguồn]

Loud là album đặt dấu chấm hết cho chủ đề mang tính cá nhân và kịch tâm lý tình cảm như tác phẩm Rated R liền trước.[30] Thay vào đó, album chào đón màn tái xuất của thể loại dance pop tiết tấu nhanh, phong cách tươi sáng và lạc quan gợi cảm hứng Caribbean đến từ những tác phẩm Music of the SunA Girl Like Me trước kia của Rihanna.[18][31] L.A. Reid đã diễn tả rằng Loud là album có âm thanh "chân thực nhất vì nghe giống như [đĩa đơn ra mắt năm 2005] 'Pon de Replay'." Ông bảo thêm Rihanna đã "ở trạng thái thuần khiết nhất của cô ấy với thể loại nhạc dance pop mang màu sắc Caribbean. Sau đó, cô ấy đi theo nhiều chiều hướng khác nhau nhưng rồi lại quay trở về nơi mình thực sự xuất phát. Mặc dù tôi nghĩ các bài hát bây giờ đã hay hơn nhiều nhưng chính sự trưởng thành trong nghề ca hát của cô ấy mới thực sự là minh chứng rõ ràng."[12] Nhà phê bình Ryan Burleson đến từ Consequence of Sound đã nhận xét Loud là "một bản thu âm R&B và dance-pop sôi động không hề mỏng manh hay quá mệt mỏi" giúp tạo nên sự cân bằng một cách khôn khéo trong nền kinh tế âm nhạc bị mất tập trung.[32]

Trong cuộc phỏng vấn cùng MTV News, Rihanna bảo rằng: "Tôi muốn những bài hát nào mà có thể lột tả được toàn bộ ca khúc của Rihanna và không ai có thể làm được. Tôi không muốn những bản ghi nhạc pop chung chung, giống như Ke$ha, Lady Gaga hoặc Katy Perry chỉ cần thực hiện và đạt thương mại. Tôi muốn một bài hát, hoặc những bài hát là của Rihanna, chỉ mình tôi đây có thể làm được và ít âm hưởng Tây Ấn nhưng trong đó vẫn mang tông điệu nhất định, cá tính ngổ ngáo nhất định và năng lượng nhất định."[33] Rihanna cho rằng nhiều bài nhạc phát hành đã gây thất vọng. Cô quảng bá âm thanh của Loud có thể giúp chữa bệnh nghiện rượu và mọi người không cần phải đi giải sầu ở mỗi dịp đi chơi như trước. Ca sĩ người Barbados giải thích: "Khi mà bạn đi câu lạc bộ mà đành phải nghe những bài nhạc tệ, thành ra bạn lại muốn tìm đến rượu bởi vì bạn muốn tận hưởng giây phút vui vẻ. Tôi ghét phải bỏ qua bài nhạc nào [...] Tôi chỉ muốn làm một album mà bạn chỉ cần nghe thôi là được."[34]

Kỷ nguyên "mái tóc màu đỏ"

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tháng 9 năm 2008, Rihanna đã thử nghiệm với nhiều kiểu tóc cho đến khi cô quyết định theo phong cách màu đỏ vào tháng 6 năm 2010.[b] Mái tóc màu đỏ "cứu hỏa" của Rihanna trở thành chủ đề gắn liền với kỷ nguyên album Loud, và xuất hiện nhiều trên các trang bìa tạp chí, truyền hình và ấn phẩm lá cải. Leah Sinclair viết cho tạp chí Gal-dem đã nhận định rằng, Loud là kỷ nguyên "vui vẻ, tán tỉnh và đéo để tâm (not giving a fuck)" và hình tượng ca sĩ trong album cũng quan trọng như âm nhạc.[36] Cây viết Monica Herrera soạn bài cho Billboard cảm nhận diện mạo mới của nữ ca sĩ bớt gay gắt hơn và lãng mạn hơn. Rihanna khẳng định, "Nhiều người ngày nay ăn mặc giống Lady Gaga. Tôi cũng vừa mới bước ra trước khán giả bằng cả ngoại hình và phong cách hoàn toàn mới [...] Thịnh hành chán bỏ xừ. Thật buồn chán khi phải chứng kiến người nào người nấy làm chuyện giống nhau cả."[37]

Bộ tóc màu đỏ xuất hiện trải dài từ video ca nhạc đĩa đơn "Only Girl (In the World)" cho đến cuối cùng là "Cheers (Drink to That)". Bên cạnh màn hợp tác trong "All of the Lights" và "Fly",[38] "Love the Way You Lie" là video âm nhạc đầu tiên mà Rihanna tái xuất với công chúng với bộ tóc màu đỏ.[39] Trong kỷ nguyên Loud, Rihanna đã sử dụng nhiều kiểu tóc như pixieana,[38] xoăn đỏ tía,[36] dài ngang vai, phong cách gợn sóng, tóc bob thẳng dài ngang vai và thắt bím kiểu Katniss Everdeen.[40] Lúc làm việc ở dự án video âm nhạc của "S&M", nhà tạo kiểu tóc Ursula Stephen đã tiết lộ với StyleList rằng cô đã phải "đi ra ngoài, mua kiểu như sáu bộ tóc giả khác nhau, nhuộm màu rồi tỉa chúng [...] Đây là một thử thách sáng tạo đối với tôi và tôi thích việc đó." Stephen còn cho rằng, những bộ tóc giả màu đỏ mà Rihanna đã yêu cầu thiết kế có mức giá rất dao động, thấp nhất là chỉ 20 đô la Mỹ và cao nhất là vài nghìn đô la Mỹ.[41] Do nhu cầu trong công nghiệp âm nhạc và giải trí nên Rihanna phải thường xuyên thay đổi kiểu tóc và quyết định dùng tóc giả trong khi quảng bá Loud.[42]

Tiêu đề và bìa đĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 2010, trong một buổi trò chuyện qua web trên trang hâm mộ Rihannadaily.com, Rihanna thông báo rằng album sẽ mang tựa đề Loud, và bảo rằng "hãy Loud nào mọi người, hãy phát khùng, hãy hạnh phúc vì tôi rất sảng khoái hào hứng. Tôi sẽ là chính tôi vì đó là điều các bạn yêu quý nhất, và đó cũng là điều khiến cho tôi cảm thấy tốt nhất. Chỉ cần bình thường, bình thường với tôi thôi là Loud!"[7] Nữ ca sĩ giải thích tiêu đề album trong một cuộc phỏng vấn cùng với Entertainment Tonight rằng "Loud là một từ ngữ, là một tên của album chắc chắn phản ánh cá tính trong đó. [Album] này thực sự ngổ ngáo và tán tỉnh và nó thu hút sự chú ý của bạn, đó là lý do tại sao tôi thích album ấy. [Loud] sẽ dẫn dắt bạn băng qua một chuyến du ngoạn tình yêu thực sự vô cùng thú vị. Album này đầy màu sắc lắm đấy."[43] Phỏng vấn cùng rapper Kanye West vào tháng 11 năm 2010, Rihanna còn cho rằng vì album thực sự rất thú vị, đầy biểu cảm và phiến loạn cùng với các bài hát bắt tai nên Loud (kịch liệt) là một từ hoàn hảo để biểu tượng hóa điều đó.[44]

Ảnh bìa của Loud là một bức hình chụp cận mặt của Rihanna với phần vai nhô lên. Cô mang mái tóc màu đỏ, khép hai mắt lại với đôi môi tô son đỏ hơi hé mở. Trên cổ của Rihanna là hình xăm với dòng chữ "rebelle fleur".[c] Bên dưới bìa đĩa là dòng chữ "L O U D" viết cách xa nhau và đây là lần đầu tiên mà nữ ca sĩ không viết nghệ danh của cô lên đó.[46] Nhà sáng lập tạp chí Rap-Up Devin Lazerine đã khen ngợi Rihanna hâm nóng ngoại hình bằng ảnh bìa album thứ năm sau nửa thập kỷ chờ đợi,[47] còn Bill Lamb bên trang About.com thì cảm nhận bức ảnh "đáng kinh ngạc".[43] Phần bìa phía bên trong album còn cho thấy Rihanna để ngực trần. Katy Hall của báo HuffPost nhận xét rằng tuy âm nhạc của nữ ca sĩ mang nhiều nghi vấn nhưng nhờ bộ ngực "tuyệt vời cùng vẻ ngoài nóng bỏng quyến rũ" với mái tóc đỏ của cô mà đã dễ dàng thu hút sự chú ý từ mọi người, kể cả khi album có "vô nghĩa" hoặc Auto-Tune cách mấy.[48]

Mở đầu album là bài hát Eurodance tiết tấu nhanh "S&M"[55] do nhóm sản xuất người Na Uy Stargate và Sandy Vee sáng tác. Đây là ca khúc gợi nhớ người thưởng thức đến "Master and Servant" năm 1984 của Depeche Mode[56] và chứa lời bài hát bạo dâm/khổ dâm.[56] "S&M" đã nhận về những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc. Tuy một số nhà bình luận đánh giá cao giai điệu sôi động cũng như phần hòa âm phối khí đã đưa bài hát trở nên tiêu biểu trong Loud, nhưng một số cây viết khác lại chỉ trích phần lời bài hát đậm tính khiêu dâm.[31][51][57][58] Andy Kellman của AllMusic khen ngợi "S&M" là một bài hát dance pop cân bằng "khía cạnh vui đùa và nham hiểm của Rihanna" một cách hiệu quả.[52] Bài thứ hai mang tên "What's My Name?" cũng do nhóm Stargate sản xuất, và có sự góp giọng của nam rapper người Canada Drake. Đây là bản nhạc R&B điện tử tiết tấu tầm trung có phần nhạc nền mang đậm thể loại reggae. "What's My Name?" còn cho thấy Rihanna đã quay trở lại với phong cách Island-pop ở giai đoạn đầu sự nghiệp của cô. Giới chuyên môn đã tán tương bài hát sở hữu giọng ca hay nhất của Rihanna cho đến nay, cùng với vẻ lãng mạn tự nhiên và tông điệu gợi tình.[54]

Ca khúc thứ ba "Cheers (Drink to That)" là một bản nhạc pop rock do The Runners thực hiện và lấy mẫu từ đĩa đơn "I'm with You" năm 2002 của nữ ca sĩ pop punk người Canada Avril Lavigne.[59] Nhà báo Mark Savage đến từ BBC News đã nhận xét bài hát mang groove guitar sôi động và vui nhộn, thích hợp để vừa thưởng thức vừa đi chơi đêm ở khắp hàng quán bên phố nhỏ (a night on the town).[60] "Fading" mang thể loại soul êm tai và được cho là lấy mẫu từ "One by One" của giọng ca nhạc Celtic Enya.[61] "Only Girl (In the World)" là ca khúc được xếp trong album ở thứ tự thứ năm, thuộc thể loại dance-pop tiết tấu nhanh và chứa yếu tố phụ Eurodance do Stargate phụ trách khâu sáng tác.[49][50][62] Bài hát đã nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trở thành một bài hát đại diện cho cá tính mới mẻ và can đảm của Rihanna, không chỉ thông qua việc thay đổi phong cách mà còn cả âm thanh "đoạn điệp khúc cao chót vót" và "những nhịp điệu sẵn sàng cho câu lạc bộ".[12][61][63] Cây bút phê bình Brad Wete của tạp chí hàng tuần Entertainment Weekly đã nhận định giọng hát Rihanna là "cưa cẩm" và góp phần đưa "Only Girl (In the World)" trở thành "phiên bản [bài hát] mạnh mẽ hơn và gợi cảm hơn" so với đĩa đơn năm 2007 "Don't Stop the Music" của cô.[50]

"California King Bed" là một bài hát rock power ballad.[64] Andy Gill bên The Independent gọi đây là ca khúc "mang giọng ca xuất sắc nhất của Rihanna",[65] còn Ryan Dombell đến từ Pitchfork thì đã so sánh bài hát này ngang tầm với ca khúc của Aerosmith, "I Don't Want to Miss a Thing".[66] Shama Joseph phụ trách sản xuất "Man Down". Đây là bản nhạc reggae với phần nhịp điệu điện tử, trong đó Rihanna phát âm ca từ bằng điệu giọng Tây Ấn vùng Caribbean.[67][68] Giới phê bình đã dành tặng những lời khen ngợi cho bài hát và gọi đây là lần mà Rihanna quay trở lại với giai điệu Caribbean trước kia của nữ ca sĩ.[67][68][69] "Raining Men" là ca khúc hip hop có sự góp giọng rap của nữ rapper Nicki Minaj. Rihanna mô tả đây là một bài hát đầy giai điệu và điên rồ hơn bản gốc, mang ngụ ý nhắc đến đĩa đơn cùng tựa "It's Raining Men" năm 1979 của The Weather Girls.[70] "Raining Men" đã nhận về những đánh giá trái chiều, họ vừa khen màn hợp tác ăn ý của Rihanna và Minaj nhưng cũng vừa chỉ trích bài hát thất bại trong việc đổi mới ý tưởng.[52]

Bài hát thứ chín, "Complicated", được Tricky StewartEster Dean chắp bút ở khâu tác giả,[19] với lời bài hát kể về những "khó khăn và hiểu lầm mà cặp đôi có thể gặp phải trong chuyện tình" bằng khí nhạc dance "thân thiện với đài phát thanh."[71] Leah Greenblatt trực thuộc Entertainment Weekly nhận xét bài hát rằng, "Ngay cả khi nói với một người đàn ông ngoan cố rằng anh ta khó yêu đến mức nào thì [Rihanna] nghe có vẻ gần như phấn chấn. Giọng hát mới được mở rộng [phần quãng] của cô ấy đã giúp thang độ nhịp nhạc house của bài hát được nâng lên tầm cao".[72] "Skin" là bài hát áp chót trong Loud, thuộc thể loại ballad mang phong cách phòng ngủ tràn đầy hơi thở và có chứa đoạn guitar đơn kéo dài ở cuối bài.[61] Dombell đã ví đây là bài hát trưởng thành nhất của Rihanna từ trước tới nay khi viết rằng "'Skin' là bài hát gợi cảm nhất của cô ấy với phần nhạc đầy ám ảnh, cận dubstep nghe có vẻ không hoàn toàn lạc lõng ở album Mezzanine của Massive Attack."[66] Cuối cùng là phần kế tiếp của "Love the Way You Lie" và cũng là màn hợp tác giữa Rihanna với Eminem mang tựa đề "Love the Way You Lie (Part II)". Ca khúc do Alex da Kid đảm đương sản xuất với nội dung lần này là Rihanna thể hiện vai diễn nhân vật chính cùng với giọng ca chính nhằm tái hiện góc nhìn trong tình yêu bạo lực ở người nữ, không như phần liền trước là Eminem đóng vai trò giọng rap chính và thể hiện góc nhìn của nam giới.[73][74]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Nam rapper người Canada Drake tham gia góp giọng trong "What's My Name?"

Đĩa đơn mở đường cho album, "Only Girl (In the World)", được phát hành làm đĩa đơn tải kỹ thuật số vào ngày 10 tháng 9 năm 2010[75] và phát sóng trên đài phát thanh hit đương đại (CHR) cũng như rhythmic đương đại tại Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 9 năm 2010.[76][77] Bài hát đạt được vị trí quán quân trên Billboard Hot 100,[78] và tại nước Anh, Canada, Úc, Áo, Bỉ (Wallonie), Ba Lan, Ireland, Ý, Romania, Hungary, Na Uy, New Zealand và Slovakia, trở thành một trong những bài hát đạt thứ hạng cao của Rihanna.[79] Đĩa đơn thứ hai "What's My Name?" hợp tác với nam rapper người Canada Drake lần đầu phát hành vào ngày 25 tháng 10 năm 2010 lên các trạm phát thanh mainstream và rhythmic Hoa Kỳ.[80][81] Bài hát nhảy vọt 59 hạng lên hạng nhất tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành ca khúc quán quân thứ 8 của Rihanna và đầu tiên của Drake trên bảng xếp hạng.[82] Bên cạnh đó, chính đĩa đơn chủ đạo "Only Girl (In the World)" leo lên dẫn đầu sau hai tuần "What's My Name?" đã lập thành tích cho Loud trở thành album đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng có đĩa đơn thứ nhất leo lên ngôi quán quân muộn hơn đĩa đơn thứ hai.[83] "What's My Name?" còn dẫn đầu xếp hạng tại Anh và trở thành đĩa đơn quán quân thứ năm của Rihanna cũng như đầu tiên của Drake tại quốc gia này.[84]

"Raining Men" được gửi lên đài urban vào ngày 7 tháng 12 năm 2010, trở thành đĩa đơn phát thanh và là thứ ba trong Loud tại Hoa Kỳ.[85] Bài hát có sự góp giọng của nữ rapper Nicki Minaj, và đặt chân vươn lên đến hạng 48 trên bảng Billboard R&B/Hip-Hop Songs.[86] Đĩa đơn thứ tư tại Hoa Kỳ và đĩa đơn quốc tế thứ ba của album, "S&M", được đưa lên đài phát thanh đại chúng mainstream vào ngày 23 tháng 1 năm 2011.[87] Video âm nhạc của bài hát ngay lập tức bị cấm chiếu ở 11 quốc gia và gắn cờ độ tuổi trưởng thành trên YouTube sau khi được công chiếu do nội dung quá người lớn, và từng bị kiện tụng vi phạm bản quyền vì ý tưởng "căn phòng màu hồng".[88][89] Phiên bản phối lại hợp tác với Britney Spears của "S&M" được phát hành lên nền tảng số vào ngày 11 tháng 4 năm 2011.[90] "S&M" vươn lên top 10 ở nhiều quốc gia và đạt hạng 1 tại Úc, Canada và Hoa Kỳ.[78][91] "Man Down" được phát hành làm đĩa đơn quốc tế thứ năm tại các quốc gia châu Âu vào tháng 7 năm 2011.[92][93] Bài hát đạt hạng cao nhất ở vị trí thứ 59 tại Billboard Hot 100[78] và dành ra 5 tuần ở vị trí đầu bảng tại Pháp.[94] "California King Bed" trở thành đĩa đơn quốc tế thứ tư vào ngày 13 tháng 5 năm 2011,[95] và đĩa đơn thứ sáu tại Hoa Kỳ. Ca khúc được gửi lên đài Mainstream/Rhythmic vào ngày 30 tháng 5[81]Hot/Modern/AC vào ngày 6 tháng 6 năm 2011.[96] "California King Bed" đạt hạng 4 tại Úc và New Zealand[97] và hạng 8 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart.[98] Rihanna công bố phát hành đĩa đơn thứ bảy của album "Cheers (Drink to That)" vào ngày 24 tháng 7 năm 2011[99] và đưa bài nhạc lên đài mainstream và rhythmic vào ngày 2 tháng 8 năm 2011.[81] "Cheers (Drink to That)" đạt lần lượt hạng 7 trên Billboard Hot 100[78] và hạng 11 trên bảng xếp hạng Pop Songs tại Hoa Kỳ.[100]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Rihanna tiết lộ tựa đề album Loud vào ngày 7 tháng 9 năm 2010 và phần ảnh bìa vào ngày 28 tháng 9 năm 2010.[7][47] Sang ngày 25 tháng 10, cô công bố danh sách bài hát chính thức của album gồm tổng cộng 11 bài hát. Hãng Def Jam và SRP Records phát hành Loud lần đầu vào ngày 12 tháng 11 năm 2010 và tại Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 11.[19][101][102] Tổng cộng Loud có bốn phiên bản vật lý khác nhau: Phiên bản tiêu chuẩn một đĩa CD;[103] Phiên bản Deluxe bao gói digipak kèm thêm đoạn phim tư liệu The Making of Loud ở định dạng DVD;[104] Phiên bản Couture gồm bản Deluxe của Loud với phần bìa là một tấm in litô cao cấp và một bộ hộp có bìa sang trọng trong suốt và một cuốn sách ảnh toàn kích cỡ;[105] Phiên bản Ultra Couture do Rihanna mở đặt trước vào ngày 29 tháng 10 dành cho người hâm mộ gồm phiên bản Deluxe của Loud do nữ ca sĩ ký tên, tải xuống MP3 của toàn bộ bài hát Loud sát ngày ra mắt (Street date) cùng toàn bộ những ưu đãi đi kèm trong bản Couture.[106] Ngoài phiên bản hợp tác với Eminem có mặt ở mọi phiên bản, phiên bản piano đơn ca của "Love the Way You Lie (Part II)" chỉ được bán kèm độc quyền trên iTunes Store.[107] Phiên bản dành cho thị trường Nhật Bản được phát hành vào ngày 19 tháng 1 năm 2011 gồm có thêm hai phiên bản remix của "Only Girl (In the World)".[108] Định dạng đĩa than vinyl của Loud chính thức được chào bán vào ngày 7 tháng 4 năm 2017.[109]

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
Rihanna biểu diễn "California King Bed" tại Loud Tour.

Để quảng bá album Loud, Rihanna tổ chức và tham gia nhiều chuyến lưu diễn và buổi diễn vòng quanh khắp châu Âu và Bắc Mỹ. Cô lần đầu biểu diễn đĩa đơn chủ đạo "Only Girl (In the World)" cùng với đĩa đơn thứ hai, "What's My Name?" ở Saturday Night Live tại Bắc Mỹ vào ngày 30 tháng 10 năm 2010.[110][111] Tại Luân Đôn ở nước Anh vào ngày tiếp theo, Rihanna biểu diễn bài hát chủ đạo cho The X Factor.[112] Ngày 7 và ngày 9 tháng 11, nữ ca sĩ biểu diễn "Only Girl (In the World)" tại lễ trao giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2010 tại Madrid,[113] và tại The X Factor phiên bản nước Ý.[114] Hôm sau, cô lại tiếp tục sang Pháp để biểu diễn ca khúc cho Le Grand Journal.[115] Rihanna trở lại Luân Đôn vào ngày 11 tháng 11 để ghi hình cho cuộc phỏng vấn cho chương trình trò chuyện The Graham Norton Show và hát "Only Girl (In the World)".[116]

Trước thềm phát hành Loud tại Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 11, Rihanna biểu diễn trực tiếp "What's My Name?" cho The Seven của MTV tại Quảng trường Thời Đại, thành phố New York.[117] Ngày hôm sau, Rihanna trình diễn bài hát tương tự trên chương trình trò chuyện Late Show with David Letterman.[118] Ngày 17 tháng 11, nữ ca sĩ người Barbados đã biểu diễn "Only Girl (In the World)" và "What's My Name?" nhằm quảng bá Loud ở chương trình Good Morning America phát sóng trên kênh ABC.[119] Sang ngày 21 tháng 11, Rihanna biểu diễn mở màn giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2010 bằng bản liên khúc album Loud. Cô bắt đầu tiết mục bằng cách hát chay "Love the Way You Lie (Part II)" và ngồi trên cây đèn phát sáng và phần dưới là "một cánh đồng cỏ úa màu xám." Rihanna sau đó nhảy xuống và biểu diễn phiên bản solo của "What's My Name?" rồi đến bản ngắn của "Only Girl (In the World)".[120] Tại giải thưởng này, cô giành được giải Nghệ sĩ nữ Soul/R&B được yêu thích nhất và để ăn mừng sau sự kiện, Rihanna đã quảng bá Loud bằng cách giảm giá tải xuống còn 5 đô la Mỹ trên trang thương mại Groupon trong ngày 22 tháng 11.[121][122]

Ngày 11 tháng 12 năm 2010, Rihanna trở lại tại đêm chung kết loạt The X Factor của Anh để trình diễn "Unfaithful" cùng Matt Cardle, và đơn ca khêu gợi bài hát "What's My Name?".[123] Buổi chung kết đã thu hút 14 triệu lượt xem cùng với 4.000 lượt phàn nàn chỉ trích vì biểu diễn "thiếu văn hóa", khiến cho cơ quan Ofcom phải vào cuộc điều tra The X Factor.[124] Tại giải Grammy lần thứ 53 vào ngày 13 tháng 2, Rihanna trình diễn "What's My Name?" với Drake.[125] Sang hai ngày tiếp theo, nữ ca sĩ có mặt tại giải Brit 2011 để trình diễn "S&M" lần đầu liên khúc với "Only Girl (In the World)" và "What's My Name?".[126] Lúc đầu, Rihanna dự định biểu diễn mỗi "S&M" trùng ngày ra mắt tại Anh Quốc, nhưng cô đành phải hợp tác theo Brit Awards là "giảm bớt ca từ liên quan đến tình dục trong lời bài hát". Kể cả khi tức giận vì bị yêu cầu thay đổi tiết mục, Rihanna cũng đã đồng ý thay đổi bởi vì tập đoàn Brit Awards muốn tránh những lời than phiền tương tự như sự việc The X Factor.[127][128] Rihanna trở thành nghệ sĩ khách mời tại NBA All-Star Game vào ngày 20 tháng 2 năm 2011 và biểu diễn liên khúc "Umbrella", "Only Girl (In the World)", "Rude Boy", "What's My Name?" (cùng Drake) và "All of the Lights" (cùng Kanye West).[129]

Rihanna thể hiện "California King Bed" theo phong cách nhạc đồng quê lần đầu tiên cùng giọng ca chính của Sugarland, Jennifer Nettles, trong giải ACM Awards do Viện hàn lâm Nhạc đồng quê chủ trì vào ngày 3 tháng 4 năm 2011.[130] Cô trở thành khách mời trong loạt American Idol mùa 10 vào ngày 14 tháng 4 năm 2011 và hát "California King Bed".[131] Rihanna biểu diễn "California King Bed" tại Milan, Paris và Hamburg với vai trò là đại sứ cho thương hiệu chăm sóc sắc đẹp Nivea.[132][133][134] Rihanna mở màn giải thưởng Billboard vào ngày 22 tháng 5 năm 2011 bằng phiên bản "S&M" remix cùng Britney Spears tại MGM Grand Garden Arena bên Las Vegas.[135] Buổi biểu diễn sau đó đã nhận nhiều lời phàn nàn vì chứa nội dung khiêu dâm công khai ngay trên chương trình phát sóng của một kênh truyền hình thuộc sở hữu công cộng.[136] Ngày 27 tháng 5 năm 2011, Rihanna trình diễn "Only Girl (In the World)", "California King Bed", "What's My Name?" và "S&M" ở loạt "Toyota Concert Series" của chương trình Today phát sóng trên đài NBC tại New York.[137][138]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
Rihanna biểu diễn "What's My Name?" tại Loud Tour.

Ngày 9 tháng 2 năm 2011, Rihanna công bố tổ chức chuyến lưu diễn thứ tư Loud Tour của cô để quảng bá album Loud bắt đầu từ tháng 6 năm 2011.[139] Chuyến lưu diễn gồm khoảng trên dưới 100 chặng diễn và mang về doanh thu 90 triệu đô la Mỹ[140] (117 triệu đô la Mỹ theo tỷ giá năm 2022).[141] Rihanna tiết lộ thiết kế sân khấu rằng: "Chúng tôi vừa mới thiết kế sân khấu và một phần chúng tôi đang xây dựng nơi mà... người hâm mộ có thể thực sự ở buổi ca nhạc và đứng tại sân khấu gần hơn mà họ từng thấy. Đó mới là VIP thực sự."[142] Chặng diễn ở Bắc Mỹ bắt đầu vào đầu tháng 6 năm 2011 tại Baltimore, Hoa Kỳ.[143] Các rapper như Drake, Kanye West và Jay-Z đều góp mặt khách mời để biểu diễn lần lượt các bài hát hợp tác cùng Rihanna như "What's My Name?", "Run This Town", "All of the Lights" và "Umbrella".[144][145][146] Ban đầu CeeLo Green dự kiến sẽ góp mặt với vai trò ca sĩ hỗ trợ ở Bắc Mỹ nhưng Green đành phải rời bỏ do vướng bận lịch trình cá nhân.[147] Loud Tour trở nên rất đắt khách ở Vương quốc Anh và bán chạy với tổng số vé hòa nhạc lên đến 300.000. Qua đó, nhiều đợt lưu diễn tại quốc gia này được nữ ca sĩ liên tục bổ sung để đáp ứng đủ nhu cầu.[148][149] Rihanna đã biểu diễn tổng cộng mười chặng tại O2 Arena ở Luân Đôn.[148] Loud Tour được giới chuyên môn lẫn mộ điệu đánh giá tích cực và một số người gọi đó là "chuyến lưu diễn xuất sắc nhất của Rihanna". Amanda Ash của Vancouver Sun nhận xét rằng, "Rihanna biết cách mở tiệc theo phong cách gợi cảm, ướt át, chặt chẽ và tươi sáng, giúp nghiền nát mọi rắc rối của ngày hôm qua bằng đôi giày cao gót nhọn cùng giai điệu câu lạc bộ say như điếu đổ."[150] Còn cây bút bên tờ Star Tribune thì cảm thấy nữ "ca sĩ người Barbados có hình tượng và giọng hát năng động hơn bao giờ hết."[151] Giữa tháng 12 năm 2012, bộ phim hòa nhạc của chuyến lưu diễn, Loud Tour Live at the O2, ghi hình tại Luân Đôn được phát hành ở định dạng DVD.[152]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?6,2/10[153]
Metacritic67/100[154]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[52]
The A.V. ClubB−[155]
Entertainment WeeklyA−[4]
The Independent[65]
Los Angeles Times[156]
NME7/10[157]
Pitchfork7,6/10[66]
Rolling Stone[158]
Slant Magazine[30]
Spin8/10[159]

Loud nhận về những bài đánh giá nhìn chung là tích cực. Tại trang tổng hợp Metacritic dựa trên số điểm trên thang 100 từ những bài đánh giá của các cây bút đại chúng, album nhận về điểm trung bình là 67 trên tổng 22 bài đánh giá.[154] Trong khi đó, bên phía AnyDecentMusic? thì Loud đạt 6,2 điểm trên thang 10 điểm.[153] Jon Pareles của tờ The New York Times cho rằng album được "tính toán kín đáo, thú vị" và viết rằng nhạc phẩm đã "vận hành các sản phẩm nhạc pop nào đó gọn gàng như bất kỳ album nào trong năm nay, trong khi vẫn duy trì thương hiệu Rihanna".[68] Leah Greenblatt đến từ Entertainment Weekly khẳng định Loud đã giúp cho Rihanna trở nên "bất khả chiến bại kể cả khi cô ấy rơi vào hoàn cảnh tồi tệ nhất — và [nữ ca sĩ] có thể tìm lại sự cứu chuộc chính xác theo kiểu nhạc pop nirvana đã khiến cô ấy nổi tiếng ngay từ đầu".[72] Nhà phê bình James Reed viết cho trang web Boston.com gọi album là "sự trở lại không hề nao núng của Rihanna tại nơi cô thuộc về chính là sàn nhảy" và tuyên bố: "Cô ấy là động lực cho 11 bài hát này tựa như giải phóng bản thân khỏi vực sâu vậy".[160] Stacey Anderson thuộc tạp chí Spin biểu dương "tuyên bố đầy đủ, lành mạnh về tình dục giới tính" của Rihanna và nói rằng album đã "mang lại nét đặc trưng của phụ nữ tự tin ngang bằng với những phong cách đẹp nhất của Shakira hoặc Beyoncé".[159]

Genevieve Koski viết cho The A.V. Club đã ca tụng Rihanna vì đã nâng tầm âm thanh phổ quát của album và giọng ca của nữ ca sĩ "tựa như được tiếp thêm sinh lực, mang đến những màn trình diễn giọng hát lôi cuốn bằng chất liệu không phải lúc nào cũng đảm bảo là có thể làm được".[155] Cây bút Emily Mackay phụ trách bên NME cảm nhận chất nhạc "thử nghiệm của [Loud] lại còn tự nhiên và mang nhịp độ giai điệu tốt hơn" cả Rated R.[157] Thomas Conner trực thuộc Chicago Sun-Times đã lên bài viết luận rằng "không khí ăn mừng trong những bài hát mới đầy hư hỏng của Rihanna đã được pha trộn thêm một số hương vị u ám hơn đến từ Rated R".[31] Tay viết lách âm nhạc Ryan Dombal cho trang Pitchfork đã tán tương album "pop sôi nổi nhiệt huyết" và bảo rằng "Phong thái tự do của [Rihanna] trong việc tạo dựng những bản hit thành công cho Loud hoàn toàn có thể dẫn đến những bước di chuyển quá an toàn hoặc những đợt bán thử nghiệm [trong âm nhạc] mang lại kết quả tuyệt vời một cách đáng ngạc nhiên".[66] Ed Power của Hot Press tôn vinh các bài hát "không có nội dung ẩn ý" và bàn luận rằng những câu hook của các tác phẩm "vươn xa cả khả năng gây nghiện."[161]

Ở những bài đánh giá trái chiều, Andy Kellman biên tập cho AllMusic cảm nhận chất liệu của album bằng các cụm từ "tồi tệ" và "không đồng đều", đồng thời gọi đây là "một tập hợp các bài hát từ nghèo nàn đến chắc chắn không tập trung hơn là một tập hợp thống nhất".[52] Andy Gill xuất bản cho tờ The Independent cảm thấy rằng "những bài hát thú vị hơn là những bài ít đòi hỏi cảm xúc dễ bị tổn thương của cô ấy hơn".[65] Sal Cinquemani bên Slant Magazine mặc dù đánh giá cao đa phần "yếu tố Tây Ấn tinh tế mà Rihanna và nhóm đồng sản xuất đã thấm nhuần một cách thông minh" trong album nhưng anh vẫn phát hiện một số sai sót trong quá trình sản xuất và viết rằng "Rihanna luôn gặp khó khăn khi hòa nhập vào một thể loại ... và dù có thế nào đi chăng nữa, Rihanna vẫn tiếp tục phát triển phong cách ngay trong album Loud".[30] Hugh Montgomery đến từ The Guardian nhận xét rằng "về mặt âm thanh thì khá là không có gì đáng chú ý ... nhưng sức nổi chói tai của [những bài hát trong album] thì lại rất khó cưỡng".[162] August Brown viết cho Los Angeles Times đã ca ngợi Loud là lời nhắc nhở mạnh mẽ về kỹ năng của Rihanna trước sự cố Grammy năm 2009 đã "thay đổi cách chúng ta đọc hiểu các bài hát của cô ấy."[156]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Hoa Kỳ, Loud ra mắt ở vị trí thứ ba và cũng là cao nhất trên bảng xếp hạng Billboard 200 nhờ vào doanh số tuần đầu đạt 207.000 bản cao nhất sự nghiệp của Rihanna tại thời điểm đó.[163] Ở bảng xếp hạng Billboard R&B/Hip-Hop Albums, nhạc phẩm mở màn ở ngôi quán quân.[164] Đến ngày 3 tháng 7 năm 2011, Loud trở thành album bán chạy thứ 11 trong năm 2011 ở Hoa Kỳ với tổng doanh số tính từ ngày 1 tháng 1 đến thời điểm ước tính đạt 598.000 bản.[165] Tạp chí Billboard xếp Loud vào vị trí hạng 9 trong danh sách album cuối năm 2011.[166] Tính đến ngày 31 tháng 5 năm 2024, Loud đạt chứng nhận 5× Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) tương đương với 5 triệu đơn vị tiêu thụ album,[167] trong đó gồm có doanh số bán album thuần túy là 1,8 triệu bản tại Hoa Kỳ tính đến tháng 6 năm 2015.[168]

Loud cũng gặt hái được nhiều thành công về mặt thương mại bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ.[169] Ở Canada, Loud ra mắt ở vị trí quán quân trên Canadian Albums Chart nhờ tuần đầu tẩu tán 27.000 bản.[170][171] Đến ngày 26 tháng 11 năm 2010, Loud đạt 80.000 bản tiêu thụ ứng với chứng nhận đĩa Bạch kim đơn và tiếp tục cho đến ngày 8 tháng 9 năm 2011, doanh số Loud đạt được 240.000 bản ở Canada và được chứng nhận đĩa 3× Bạch kim.[172] Ở Pháp, album ra mắt ở hạng ba trong tuần đầu với số lượt tiêu thụ đạt 17.304.[173] Trong tuần thứ sáu trụ hạng ở Pháp, Loud cán mốc 100.000 đơn vị tiêu thụ,[174] tổng đạt 355.000 đơn vị ở Pháp tính ở thời điểm tháng 4 năm 2013.[175] Vào ngày 20 tháng 2 năm 2011, Loud đạt hạng cao nhất ở vị trí thứ 2 ở bảng xếp hạng Album Úc.[176] Album còn đạt chứng nhận đĩa 3× Bạch kim vào ngày 30 tháng 10 năm 2015 từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.[177] Loud vươn lên hạng cao nhất ở vị trí thứ 11 ở Ý,[178] trở thành album số một thứ ba liên tiếp của nữ ca sĩ ở Thụy Sĩ,[179] và ra mắt ở hạng hai trên bảng xếp hạng album Đức.[180]

Loud ra mắt ở hạng hai tại Anh với doanh số bán ra trong tuần đầu tiên đạt 91.000 bản[181] và trở thành album thứ hai của Rihanna leo lên được ngôi quán quân ở Anh vào đầu tháng 1 năm 2011.[182] Loud còn trở thành album bán chạy thứ tư trong năm 2010 ở Anh Quốc.[183] Loud đạt chứng nhận đĩa 7× Bạch kim từ British Phonographic Industry (BPI) nhờ tổng tiêu thụ bán lẻ đạt 2,1 triệu bản,[184] đồng thời trở thành album R&B và hip hop bán chạy nhất năm 2011 ở Anh.[185] Tháng 8 năm 2012, Loud trở thành album kỹ thuật số bán chạy thứ năm mọi thời đại tại Anh và tính đến tháng 3 năm 2015, Loud là album bán chạy thứ 45 trong thiên niên kỷ tại quốc gia này.[186][187] Tính đến tháng 11 năm 2011, album bán được 8 triệu bản trên toàn thế giới.[188][189] Ngoài các quốc gia nêu trên, Loud còn vươn lên vị trí quán quân ở các bảng xếp hạng vùng và lãnh thổ châu Âu (1),[181] Scotland (1),[190] Ireland (1)[191] và Na Uy (1);[192] các thứ hạng cao ở Đan Mạch (2),[193] Wallonie của Bỉ (2),[194] Vlaanderen (3),[195] Áo (3),[196] Nga (3),[197] New Zealand (4),[198] Ba Lan (4),[199] Nhật Bản (5),[200] Hà Lan (6),[201] Hungary (6)[202] và Tây Ban Nha (6).[203]

Thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]

giải Grammy lần thứ 53 tại Los Angeles vào ngày 13 tháng 2 năm 2011, đĩa đơn mở đường "Only Girl (In the World)" thắng giải Thu âm nhạc dance/điện tử xuất sắc nhất.[204] Sang giải thưởng Âm nhạc Billboard 2011 vào ngày 22 tháng 5, Loud được đề cử giải Album R&B hàng đầu và "What's My Name?" được đề cử giải Bài hát R&B hàng đầu.[205] Đến ngày 20 tháng 11, album đoạt giải Album Soul/Rhythm/Blues được yêu thích nhất và được đề cử giải Album Pop/Rock được yêu thích nhất tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2011.[206] Tại giải Grammy lần thứ 54 vào ngày 12 tháng 2 năm 2012, Loud được đề cử ở hai hạng mục Album của năm, Album giọng pop xuất sắc nhất, còn bài hát "What's My Name?" thì mang về một đề cử Hợp tác Rap/Hát xuất sắc nhất.[207] Ngày 1 tháng 4 năm 2012, Loud nhận được đề cử ở hạng mục Album quốc tế của năm tại giải Juno cùng năm.[208]

Loud được nhiều ấn phẩm xướng danh vào danh sách hàng đầu. Cây bút Taylor Weatherby từ Billboard đã xếp album ở vị trí 84 trong danh sách 100 album xuất sắc nhất thập niên 2010 và khen ngợi Rihanna đã củng cố vị trí của mình với tư cách là "một trong những nghệ sĩ tạo hit đều đặn trong làng nhạc pop" bằng việc cho ra mắt một LP chứa danh sách ca khúc "chỉ toàn là hit".[209] Loud xuất hiện ở vị trí thứ 5 trong danh sách 33 album hàng đầu của năm 2010 theo trang Popjustice.[210] Các nhà phê bình âm nhạc Rebecca Nicholson và Alex Needham đến từ báo The Guardian đã lần lượt chọn Loud là album thứ tư và đĩa đơn "Only Girl (In the World)" là bài hát thứ năm xuất sắc nhất năm 2010.[211] Ngoài ra, nhóm tác giả chuyên nhạc pop và rock bên The Guardian còn xếp Loud ở vị trí thứ 34 trong danh sách 40 album xuất sắc của năm 2010.[212]

Năm 2021, cây viết Rhian Daly bên NME xếp Loud là album hay thứ nhì của Rihanna chỉ sau Anti. Cô nhận xét việc phó chủ tịch Def Jam từng bảo rằng sẽ không có "bài hát nhồi nhét vào album" là hơi quá. Daly cho rằng tuy đúng là Loud sở hữu nhiều bản hit khiến cho album mang tính biểu tượng nhất, nhưng hai bài "California King Bed" và "Complicated" đã lần lượt trở thành điểm trừ của Loud vì "dịu dàng" và "vô vị".[213] Payton Wilson đến từ mạng lưới Revolt cũng xếp Loud ở vị trí thứ 2 sau Anti vào tháng 2 năm 2024. Anh nhận định chính giai điệu sôi động, sống động và tràn đầy năng lượng của album phù hợp với cả một giai đoạn trong sự nghiệp của Rihanna đã đưa nữ ca sĩ đến tượng đài thống trị về mặt thương mại và trở thành một biểu tượng được công nhận trên toàn cầu. Wilson cũng nhận xét chuyến lưu diễn quảng bá album Loud Tour đã góp phần tăng cường sự hiện diện của nữ ca sĩ người Barbados.[6] Đồng tình, tạp chí Essence cũng xếp Loud ở hàng thứ 2 phía sau Anti và chỉ ra những đặc điểm như âm thanh sôi động, chất liệu tươi sáng lạc quan từ hai album từ đầu và yếu tố rock lẫn reggae góp phần đưa đến thành công thương mại của nhạc phẩm.[18]

Danh sách ca khúc và phiên bản

[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin danh sách ca khúc và phần ghi công được lấy từ ghi chú của Loud.[19]

Danh sách ca khúc của Loud — Phiên bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
1."S&M"4:03
2."What's My Name?" (hợp tác với Drake)
  • Stargate
  • Harrell[d]
4:23
3."Cheers (Drink to That)"
4:21
4."Fading"
  • Darnell Dalton
  • Jamal Jones
  • Lamar Taylor
  • Quinton Amey
  • William Hodge
3:19
5."Only Girl (In the World)"
  • Stargate
  • Vee
  • Harrell[d]
3:55
6."California King Bed"
  • The Runners
  • Harrell[d]
4:11
7."Man Down"
  • Sham
  • Harrell[d]
4:27
8."Raining Men" (hợp tác với Nicki Minaj)
3:44
9."Complicated"
  • Stewart
  • Dean
  • Harrell[d]
4:17
10."Skin"
5:03
11."Love the Way You Lie (Part II)" (hợp tác với Eminem)
4:56
Tổng thời lượng:46:39
Loud — Nội dung bổ sung ở phiên bản Spotify[214]
STTNhan đềThời lượng
12."Only Girl (In the World)" (The Bimbo Jones Club)7:17
Tổng thời lượng:53:56
Loud — Nội dung bổ sung ở phiên bản Amazon Prime Music[215]
STTNhan đềThời lượng
12."Only Girl (In the World)" (CCW Mix Show Edit)5:55
13."Only Girl (In the World)" (Video âm nhạc)4:15
Tổng thời lượng:56:49
Loud — Nội dung bổ sung ở phiên bản Nhật Bản[108]
STTNhan đềThời lượng
12."Only Girl (In the World)" (The Bimbo Jones Radio)3:53
13."Only Girl (In the World)" (CCW Radio Mix)3:44
Tổng thời lượng:54:16
Loud — Nội dung bổ sung ở phiên bản Deluxe trên iTunes Store[216]
STTNhan đềThời lượng
12."Love the Way You Lie (Part II)" (Phiên bản Piano)4:09
13."Only Girl (In the World)" (Video âm nhạc)4:15
14."Only Girl (In the World)" (Mixin Marc & Tony Svejda Mix Show Edit) (Chỉ dành cho đặt trước)6:25
Tổng thời lượng:61:28
Loud — DVD The Making of Loud đi kèm trong phiên bản Deluxe[217]
STTNhan đềThời lượng
1."The Making of Loud: Chapter 1"0:48
2."The Making of Loud: Chapter 2 – Raining Men Recording Session"1:32
3."The Making of Loud: Chapter 3 – Man Down Recording Session"1:40
4."The Making of Loud: Chapter 4"0:30
5."The Making of Loud: Chapter 5 – Live in NYC – Madison Square Garden"7:00
6."The Making of Loud: Chapter 6 – Reb'l Fleur Photo Shoot"3:30
7."The Making of Loud: Chapter 7 – Loud Album Art Photo Shoot"1:52
8."The Making of Loud: Chapter 8 – Day One"3:39
9."The Making of Loud: Chapter 9 – Day Two"2:48
10."The Making of Loud: Chapter 10 – Credits" (kèm theo video hậu trường The Making of "Only Girl (In the World)")3:05
Tổng thời lượng:26:24

Ghi chú

Đội ngũ sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin phần ghi công sản xuất của Loud được lấy từ AllMusic[219] và ghi chú của album.[19]

Nhạc sĩ

[sửa | sửa mã nguồn]

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Camilla Akrans – chụp ảnh
  • Veronika Bozeman – sản xuất giọng hát bổ sung (bài hát số 1, 4)
  • Noel Cadastre – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát cho Drake (bài hát số 2)
  • Bobby Campbell – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 1, 2, 7, 9–11), hỗ trợ trộn nhạc (bài hát số 3)
  • Ariel Chobaz – kỹ thuật giọng hát (bài hát số 8)
  • Cary Clark – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 7)
  • Corey Shoemaker – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 4)
  • Carol Corless – sản xuất đóng gói
  • Karin Darnell – trang điểm
  • Ester Dean – sản xuất (bài hát số 9), giọng hát nền (bài hát số 1, 2, 4)
  • Mikkel S. Eriksen – sản xuất và kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 1, 2, 5)
  • Jesus Garnica – hỗ trợ trộn nhạc (bài hát số 8–10)
  • Chris Gehringer – kỹ thuật master
  • Brad Palmer – thiết kế ý tưởng, đạo diễn video
  • Brian Palmer – đạo diễn video, sản xuất video
  • Josh Gudwin – kỹ thuật giọng hát (bài hát số 1, 2, 4–11)
  • Mariel Haenn – nhà tạo mẫu
  • Alex Haldi – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế ý tưởng
  • Inaam Haq – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 3, 5)
  • Kuk Harrell – sản xuất giọng hát và kỹ thuật giọng hát (bài hát số 1, 2, 4–11)
  • Koby Hass – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 8)
  • Tor Erik Hermansen – sản xuất (bài hát số 1, 2, 5)
  • Jaycen Joshua – trộn nhạc (bài hát số 8–10)
  • Brandon Joner – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát cho Drake (bài hát số 2)
  • JP Robinson – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế ý tưởng
  • Rob Katz – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 10)
  • Alex da Kid – sản xuất và kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 11)
  • Damien Lewis – hỗ trợ bổ sung và hỗ trợ kỹ thuật (bài hát số 1, 2, 4–6)
  • Dane Liska – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 3, 5)
  • Erik Madrid – hỗ trợ trộn nhạc (bài hát số 7, 11)
  • Deborah Mannis-Gardner – xin giấy phép lấy mẫu âm thanh
  • Scott Marcus – A&R
  • Manny Marroquin – trộn nhạc (bài hát số 7, 11)
  • Dana Nielsen – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 8)
  • Ben O'Neill – hỗ trợ kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 3)
  • Ciarra Pardo – chỉ đạo nghệ thuật, chỉ đạo ý tưởng, thiết kế ý tưởng
  • Christian Plata – hỗ trợ trộn nhạc (bài hát số 7, 11)
  • Polow da Don – sản xuất (bài hát số 4)
  • Antonio "L.A." Reid – giám đốc sản xuất
  • Shama "Sham" Joseph – sản xuất (bài hát số 7)
  • Antonio Resendiz – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 3)
  • Makeba Riddick – sản xuất giọng hát (bài hát số 3, 10)
  • Evan Rogers – giám đốc sản xuất
  • Chad "C Note" Roper – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 10)
  • The Runners – sản xuất (bài hát số 3, 6)
  • Brad Shea – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 3, 5)
  • Noah "40" Shebib – kỹ thuật giọng hát cho Drake (bài hát số 2)
  • Ursula Stephen – nhà tạo kiểu tóc
  • Jay Stevenson – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 4)
  • Christopher "Tricky" Stewart – sản xuất (bài hát số 9)
  • Mike Strange – kỹ thuật giọng hát cho Eminem (bài hát số 11)
  • Carl Sturken – giám đốc sản xuất
  • Phil Tan – trộn nhạc (bài hát số 1, 2, 4–6)
  • Brian "B-Luv" Thomas – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 9)
  • Marcos Tovar – kỹ thuật giọng hát (toàn bộ bài hát), trộn nhạc (bài hát số 3)
  • Sandy Vee – sản xuất và trộn nhạc (bài hát số 1, 5), kỹ thuật (bài hát số 1, 4, 5)
  • Jeff "Supa Jeff" Villanueva – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 3, 6)
  • Miles Walker – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 1, 2, 5)
  • Kyle White – hỗ trợ kỹ thuật giọng hát (bài hát số 6)
  • Andrew Wuepper – kỹ thuật âm nhạc (bài hát số 9)
  • Robert Zangardi – nhà tạo mẫu

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận và doanh số của Loud
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[177] 3× Bạch kim 210.000^
Áo (IFPI Áo)[272] Vàng 10.000*
Bỉ (BEA)[273] Bạch kim 30.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[274] Bạch kim 40.000*
Canada (Music Canada)[172] 3× Bạch kim 240.000^
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[275] 3× Bạch kim 60.000double-dagger
Pháp (SNEP)[277] 355.000[276]
GCC (IFPI Trung Đông)[278] Vàng 3.000*
Đức (BVMI)[279] 2× Bạch kim 600.000double-dagger
Hungary (Mahasz)[280] Vàng 3.000^
Ireland (IRMA)[281] 5× Bạch kim 75.000^
Ý (FIMI)[282] Bạch kim 60.000*
Nhật Bản (RIAJ)[283] Vàng 100.000^
New Zealand (RMNZ)[284] Bạch kim 15.000^
Ba Lan (ZPAV)[285] 3× Bạch kim 60.000*
Bồ Đào Nha (AFP)[286] Vàng 10.000^
Nga (NFPF)[287] Vàng 5.000*
Singapore (RIAS)[288] Bạch kim 10.000*
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[289] Vàng 30.000^
Thụy Điển (GLF)[290] 2× Bạch kim 80.000double-dagger
Thụy Sĩ (IFPI)[291] 2× Bạch kim 60.000^
Anh Quốc (BPI)[184] 7× Bạch kim 2.100.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[167] 5× Bạch kim 5.000.000double-dagger
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[292] 3× Bạch kim 3.000.000*
Thế giới 8.000.000[188]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày phát hành và định dạng của Loud
Khu vực Ngày Định dạng Phiên bản Hãng Chú thích
Úc 12 tháng 11 năm 2010 CD Tiêu chuẩn Def Jam Recordings [101]
Đức CD, CD+DVD Tiêu chuẩn, deluxe [293]
Ireland Tải kỹ thuật số Tiêu chuẩn [294]
Hà Lan CD [295]
Pháp 15 tháng 11 năm 2010 CD, CD+DVD Tiêu chuẩn, deluxe [296]
New Zealand [297]
Bồ Đào Nha [298]
Philippines [299]
Anh Quốc CD Tiêu chuẩn Mercury Records [300]
Brasil Universal Music [301]
Mexico 16 tháng 11 năm 2010 Def Jam Recordings [302]
Hoa Kỳ CD, CD+DVD, tải kỹ thuật số Tiêu chuẩn, deluxe [103]
CD+DVD Deluxe (Phiên bản Couture) [303]
Ba Lan 19 tháng 11 năm 2010 CD Tiêu chuẩn Universal Music [304]
Indonesia 2 tháng 12 năm 2010 [305]
Nhật Bản 19 tháng 1 năm 2011 CD, CD+DVD Tiêu chuẩn, deluxe [306]
Nhiều 7 tháng 4 năm 2017 Vinyl Tiêu chuẩn Def Jam Recordings [109]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lúc đầu có khoảng 100 người được Rihanna mời tham gia sáng tác cho Loud.[12]
  2. ^ Rihanna quyết định chọn phong cách mái tóc màu đỏ sau khi nhà tạo kiểu tóc Ursula Stephen của nữ ca sĩ thử phủ lên mái tóc của cô bằng một loại phẩm nhuộm đỏ, thực hiện công đoạn nối tóc rồi sử dụng hệ thống làm suôn mượt tóc Motions Silkening Shine Relaxer System để giữ vẻ ngoài trong hoàn hảo nhất.[35]
  3. ^ Dịch sang tiếng Anh: "rebellious flower". Tạm dịch: "đóa hoa nổi loạn".[45]
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n Nhà sản xuất giọng hát.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Rodriguez, Jayson (ngày 22 tháng 7 năm 2009). “Ne-Yo Won't Write A 'Chris Brown Bash Song' For Rihanna” [Ne-Yo sẽ không viết 'Bài hát bày tỏ ghét bỏ Chris Brown' cho Rihanna] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ McCormick, Neil (ngày 20 tháng 11 năm 2009). “Rihanna: Rated R, pop CD of the week” [Rihanna: Rated R, đĩa CD nhạc pop của tuần]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ Wood, Mikael (ngày 2 tháng 12 năm 2009). “Rihanna: Rated R – CD Reviews” [Rihanna: Rated R – Đánh giá đĩa CD]. The Phoenix (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ a b Greenblatt, Leah (ngày 18 tháng 11 năm 2009). “Rated R (2009)” [Rated R (2009)]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ Powers, Ann (ngày 23 tháng 11 năm 2009). “Album review: Rihanna's 'Rated R' [Đánh giá album: 'Rated R' của Rihanna]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b Wilson, Payton (ngày 10 tháng 2 năm 2024). “Rihanna's albums ranked” [Xếp hạng các album của Rihanna] (bằng tiếng Anh). Revolt. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ a b c d Kaufman, Gil (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Reveals Title of New Album” [Rihanna tiết lộ tựa đề album mới] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ Fresh, Mikey (ngày 14 tháng 2 năm 2011). “Grammy Recap: Stargate Talks Rihanna's 'Only Girl (In The World)' Winning 'Best Dance Recording' [Tóm tắt giải Grammy: Stargate nói về Rihanna 'Only Girl (In The World)' giành giải 'Thu âm nhạc dance hay nhất']. Vibe (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ Vena, Jocelyn (ngày 3 tháng 3 năm 2010). “Rihanna Working On New Album, Producer Confirms” [Rihanna đang thực hiện album mới, nhà sản xuất xác nhận] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ Rodriguez, Jayson (ngày 17 tháng 6 năm 2010). “Rihanna Is Working On 'Positive, Explosive' Tracks With Sean Garrett” [Rihanna đang thực hiện sản xuất các bài hát 'tích cực và bùng nổ' cùng với Sean Garrett] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2024.
  11. ^ “Rihanna's Next Album To Rival 'Thriller'?” [Album tiếp theo của Rihanna sắp sửa cạnh tranh với 'Thriller'?] (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 19 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ a b c d e Herrera, Monica (ngày 16 tháng 10 năm 2010). “The Happiness Project” [Dự án hạnh phúc] (PDF). Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 122 (41): 19–21. ISSN 0006-2510. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2024.
  13. ^ Jonah, Weiner (ngày 9 tháng 12 năm 2010). “Rihanna Gets 'Loud' With Disc of High-Energy Party Jams” [Rihanna sở hữu chiếc đĩa 'Loud' toàn bài hát tiệc tùng đầy năng lượng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  14. ^ a b c Eells, Josh (ngày 14 tháng 4 năm 2011). “Rihanna, Queen of Pain” [Rihanna, Nữ hoàng của thống khổ]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  15. ^ Ketchum III, William (ngày 3 tháng 1 năm 2012). “Sak Pase Reveals Queen's Influence On "Watch The Throne" Tracks, Rihanna's "Man Down" Controversy” [Sak Pase tiết lộ tầm ảnh hưởng của Queen đối với các ca khúc "Watch The Throne", tranh cãi trong bài hát "Man Down" của Rihanna]. HipHopDX (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ Chace, Zoe (ngày 30 tháng 6 năm 2011). “How Much Does It Cost To Make A Hit Song?” [Chi phí để tạo nên một bài hát hit là bao nhiêu?] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  17. ^ Oliver 2011, tr. 209.
  18. ^ a b c “Rihanna's Full Album List, Ranked” [Danh sách album đầu của Rihanna, được xếp hạng]. Essence (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  19. ^ a b c d e Rihanna (ngày 12 tháng 11 năm 2010). Loud [Kịch liệt] (Phần bìa trong) (bằng tiếng Anh). Def Jam Recordings, SRP Records.
  20. ^ “Rihanna Working With Taio Cruz On New Album” [Rihanna hợp tác với Taio Cruz trong album mới] (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 30 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  21. ^ Cline, Georgette (ngày 18 tháng 6 năm 2010). “Rihanna Working with Producer Alex Da Kid on New Album” [Rihanna hợp tác với nhà sản xuất Alex Da Kid trong album mới]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  22. ^ “Sean Garrett Pens Rihanna's Next Album” [Sean Garrett chấp bút cho album tiếp theo của Rihanna] (bằng tiếng Anh). MTV Base. ngày 2 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  23. ^ “Rap-Up TV: Ne-Yo Reveals Album Details, Alter-Ego, & Writing for Rihanna” [Rap-Up TV: Ne-Yo tiết lộ thông tin chi tiết về album, bản ngã thay đổi và sáng tác nhạc cho Rihanna]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  24. ^ “Timberland and Rico Love Working On New Rihanna Album” [Timberland và Rico Love làm việc trong album mới của Rihanna]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  25. ^ Thomas, Rebecca (ngày 19 tháng 10 năm 2010). “Rihanna's Loud Will Be 'Brighter,' Shontelle Says” [Shontelle nói: Âm nhạc của Rihanna sẽ 'tươi sáng hơn'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  26. ^ Montgomery, James (ngày 27 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Shoots Video For Loud Track 'What's My Name?' [Rihanna quay video cho ca khúc 'What's My Name?' trong Loud] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  27. ^ Lipshutz, Jason; Mapes, Jillian; Gaedeke, Emma; Frazier, Walter (ngày 24 tháng 9 năm 2010). “Billboard Bits: Lady Gaga Turning Meat Dress into Jerky, Drake Working with Rihanna” [Billboard Bits: Lady Gaga biến chiếc váy thịt thành món thịt bò khô, Drake hợp tác với Rihanna]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  28. ^ Ziegbe, Mawuse (ngày 8 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Calls Drake The 'Only Person' For 'What's My Name' Remix” [Rihanna gọi Drake là 'Người duy nhất' trong bản phối lại 'What's My Name'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  29. ^ Vena, Jocelyn (ngày 1 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Gets 'Really Flirty' With Drake On 'What's My Name?' [Rihanna 'thực sự rất ve vãn' cùng Drake trong 'What's My Name?'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  30. ^ a b c Cinquemani, Sal (ngày 12 tháng 11 năm 2010). “Review: Rihanna, Loud” [Đánh giá: Rihanna, Loud]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  31. ^ a b c Conner, Thomas (ngày 16 tháng 11 năm 2010). 'Loud' a well-deserved party for Rihanna” ['Loud' là một bàn tiệc xứng đáng dành cho Rihanna]. Chicago Sun-Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  32. ^ Burleson, Ryan (ngày 22 tháng 11 năm 2010). “Album Review: Rihanna — Loud” [Đánh giá album: Rihanna — Loud]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  33. ^ Dinh, James (ngày 1 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Dishes On New Album Loud, Acting In 'Battleship' [Rihanna buôn chuyện về album mới Loud, diễn xuất trong 'Battleship'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  34. ^ Copsey, Robert (ngày 7 tháng 10 năm 2010). “Rihanna: 'Album will cure alcoholics' [Rihanna: 'Album sẽ chữa người nghiện rượu'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  35. ^ Oliver 2011, tr. 166-167.
  36. ^ a b Sinclair, Leah (ngày 12 tháng 11 năm 2020). “Ten years later, 'Loud' by Rihanna still helps me feel fearless” [Sau 10 năm, 'Loud' của Rihanna vẫn còn khiến cho tôi cảm thấy dạn dĩ]. Gal-dem (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  37. ^ Herrera, Monica (ngày 16 tháng 11 năm 2010). “Rihanna: The Billboard Cover Story” [Rihanna: Câu chuyện trang bìa Billboard]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  38. ^ a b Thembiso (ngày 7 tháng 8 năm 2020). “Red Haired Rihanna Was An ERA!” [Rihanna tóc đỏ từng là một KỶ NGUYÊN!] (bằng tiếng Anh). The Shade Room. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  39. ^ Oliver 2011, tr. 164.
  40. ^ McKenzie, Janae (ngày 2 tháng 4 năm 2022). “The Rihanna Hair Evolution: Through the Years” [Quá trình tiến hóa bộ tóc của Rihanna: Qua các năm]. Glamour (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  41. ^ Oliver 2011, tr. 167-168.
  42. ^ Oliver 2011, tr. 168-169.
  43. ^ a b Lamb, Bill (ngày 29 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Unveils Loud Album Cover” [Rihanna hé lộ bìa album Loud] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  44. ^ West, Kanye (ngày 18 tháng 11 năm 2010). “Rihanna” [Rihanna]. Interview (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  45. ^ Oliver 2011, tr. 114.
  46. ^ Oliver 2011, tr. 214-215.
  47. ^ a b Lazerine, Devin (ngày 28 tháng 9 năm 2010). “Album Cover: Rihanna - 'Loud' [Ảnh bìa album: Rihanna - 'Loud']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  48. ^ Hall, Katy (ngày 16 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Goes Topless In 'Loud' Album Art (PHOTOS)” [Rihanna khoe ngực trần trong ảnh bìa 'Loud' (CÓ HÌNH)]. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  49. ^ a b Anderson, Sara D (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna, 'Only Girl (In the World)' -- New Song” [Rihanna, 'Only Girl (In the World)' -- Bài hát mới] (bằng tiếng Anh). AOL. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  50. ^ a b c Wete, Brad (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna released new single 'Only Girl (In The World)', gets us excited about upcoming album” [Rihanna phát hành đĩa đơn mới 'Only Girl (In The World)', khiến chúng ta háo hức về album sắp tới]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  51. ^ a b Fleetwood 2012, tr. 427.
  52. ^ a b c d e Kellman, Andy (ngày 14 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud] (bằng tiếng Anh). AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  53. ^ Ryan, Chris (ngày 8 tháng 11 năm 2010). “Song You Need To Know: Rihanna, 'S&M' [Bài hát bạn cần biết: Rihanna, 'S&M'] (bằng tiếng Anh). MTV Buzzworthy Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  54. ^ a b Cụm nguồn phân tích "What's My Name?":
  55. ^ Mackay, Emily (ngày 3 tháng 11 năm 2010). “Rihanna, 'Loud' – Album First Listen” [Rihanna, 'Loud' – Lần đầu nghe thử Album]. NME (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  56. ^ a b Wolk, Douglas (ngày 9 tháng 2 năm 2011). “Rihanna, 'S&M' [Rihanna, 'S&M']. The Daily (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  57. ^ Levine, Nick (ngày 20 tháng 3 năm 2011). “Rihanna: 'S&M' [Rihanna: 'S&M'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  58. ^ Skinner, James (ngày 15 tháng 11 năm 2010). “Music – Review of Rihanna – Loud” [Âm nhạc – Đánh giá cho Rihanna – Loud] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  59. ^ a b Sciarretto, Amy (ngày 21 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Samples Avril Lavigne on "Loud" [Rihanna lấy mẫu Avril Lavigne ở "Loud"] (bằng tiếng Anh). Artistdirect. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  60. ^ Savage, Mark (ngày 6 tháng 10 năm 2010). “Rihanna premieres fifth album, Loud, in London” [Rihanna công bố album thứ năm, Loud, tại Luân Đôn] (bằng tiếng Anh). BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  61. ^ a b c Govan 2011, tr. 169.
  62. ^ “Digital Sheet Music, Rihanna 'Only Girl (In the World)' [Bản phổ nhạc kỹ thuật số, Rihanna 'Only Girl (In the World)'] (bằng tiếng Anh). Musicnotes. 2010. MN0087169 (số sản phẩm). MN0087169. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  63. ^ Lamb, Bill. “Rihanna - "Only Girl (In the World)" [Rihanna - "Only Girl (In the World)"] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  64. ^ Cụm nguồn thể loại bài hát "California King Bed":
  65. ^ a b c Gill, Andy (ngày 12 tháng 11 năm 2010). “Album: Rihanna, Loud (Mercury)” [Album: Rihanna, Loud (Mercury)]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  66. ^ a b c d Dombal, Ryan (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  67. ^ a b Cheung, Nadine (ngày 25 tháng 4 năm 2011). “Rihanna, 'Man Down' – New Song” [Rihanna, 'Man Down' – Bài hát mới] (bằng tiếng Anh). AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  68. ^ a b c Pareles, Jon; Caramanica, Jon (ngày 15 tháng 11 năm 2010). “Critics' Choice: New CDs — Review: Loud” [Lựa chọn của giới chuyên môn: CD mới — Đánh giá: Loud]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  69. ^ Fleetwood 2012, tr. 431.
  70. ^ Crosley, Hillary (ngày 21 tháng 1 năm 2011). “Nicki Minaj Says 'Raining Men' Duet With Rihanna Was Written 'In Bed' [Nicki Minaj tiết lộ bản song ca 'Raining Men' với Rihanna được viết 'trên giường ngủ'] (bằng tiếng Anh). MTV RapFix. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  71. ^ Vena, Jocelyn (ngày 15 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Reveals Inspiration for Loud's 'Complicated' [Rihanna tiết lộ cảm hứng của bài 'Complicated' trong Loud] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024.
  72. ^ a b Greenblatt, Leah (ngày 10 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  73. ^ Muhammad, Latifah (ngày 19 tháng 10 năm 2010). “Rihanna and Eminem to make a Love the Way You Lie sequel” [Rihanna và Eminem làm phần tiếp theo của Love the Way You Lie]. The Boombox (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  74. ^ Fleetwood 2012, tr. 425.
  75. ^ “Only Girl (In the World) – Single – Australia” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Úc] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  76. ^ “Radio & Records – Going For Adds – CHR/Top 40 – Week Of: September 21, 2010” [Radio & Records – Sắp lên sóng – CHR/Top 40 – Tuần: 21 tháng 9 năm 2010]. Radio & Records (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  77. ^ “Radio & Records – Going For Adds – Rhythmic – Week Of: September 21, 2010” [Radio & Records – Sắp lên sóng – Rhythmic – Tuần: 21 tháng 9 năm 2010]. Radio & Records (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  78. ^ a b c d “Rihanna Chart History (Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Rihanna (Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  79. ^ Oliver 2011, tr. 192.
  80. ^ “Airplay Archive – Rhythm” [Lưu trữ phát thanh – Rhythm]. FMQB (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  81. ^ a b c “Airplay Archive – CHR” [Lưu trữ phát thanh – CHR]. FMQB (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  82. ^ Cụm nguồn tham khảo thành tích của "What's My Name?":
  83. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'Only Girl' Rebounds to No. 1 on Hot 100” ['Only Girl' của Rihanna trở lại vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  84. ^ “Take That Marks A Year At Number One” [Hãy điểm qua thành tích một năm các bài hát ở vị trí số một] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 5 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  85. ^ “Radio & Records – Going For Adds – Urban – Week Of: December 7, 2010” [Radio & Records – Sắp lên sóng – Urban – Tuần: 7 tháng 12 năm 2010]. Radio & Records (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  86. ^ “Rihanna Chart History - R&B/Hip Hop Songs” [Lịch sử bảng xếp hạng - R&B/Hip Hop Songs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  87. ^ “Radio & Records – Going For Adds – CHR/Top 40 – Week Of: January 23, 2011” [Radio & Records – Sắp lên sóng – CHR/Top 40 – Tuần: 23 tháng 1 năm 2011]. Radio & Records (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  88. ^ “Rihanna's 'S&M' video banned in 11 countries” [Video 'S&M' của Rihanna bị cấm ở 11 quốc gia]. The Indian Express (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024.
  89. ^ LaChapelle v. Fenty et al [LaChapelle c. Fenty và các bên liên quan] (PDF) (bằng tiếng Anh). The Justia Federal District Court Filings & Dockets. ngày 20 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024.
  90. ^ “S&M (Remix) feat. Britney Spears – Single – United States” [S&M (Remix) hợp tác với Britney Spears – Đĩa đơn – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  91. ^ Oliver 2011, tr. 240.
  92. ^ Corner, Lewis (ngày 27 tháng 4 năm 2011). “Rihanna switches new single release dates?” [Có phải Rihanna đã đổi ngày phát hành đĩa đơn mới?] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  93. ^ “Man Down – Single – France” [Man Down – Đĩa đơn – Pháp] (bằng tiếng Pháp). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  94. ^ “lescharts.com – Rihanna – Man Down” [Bảng xếp hạng lescharts.com – Rihanna – Man Down] (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  95. ^ “California King Bed – Single – Denmark” [California King Bed – Đĩa đơn – Đan Mạch] (bằng tiếng Đan Mạch). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  96. ^ “Hot/Modern/AC Future Releases” [Phát hành Hot/Modern/AC tương lai] (bằng tiếng Anh). All Access Music Group. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  97. ^ Cụm nguồn thứ hạng của "California King Bed":
  98. ^ “Official Singles Chart – 5 June 2011” [Bảng xếp hạng đĩa đơn Official – ngày 5 tháng 6 năm 2011] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 5 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  99. ^ Corner, Lewis (ngày 25 tháng 7 năm 2011). “Rihanna announces new single 'Cheers' [Rihanna công bố đĩa đơn mới 'Cheers'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  100. ^ “Rihanna Chart History (Pop Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Rihanna (Pop Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  101. ^ a b “Loud – Album – Australia” [Loud – Album – Úc] (bằng tiếng Anh). JB Hi-Fi. ngày 12 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  102. ^ “loud - official track list” [loud - danh sách bài hát chính thức] (bằng tiếng Anh). Rihanna.com. ngày 25 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  103. ^ a b “Loud – Album – United States” [Loud – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 16 tháng 11 năm 2010. ASIN B00428ZRFE. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  104. ^ “Rihanna - Loud - Deluxe Edition (CD + DVD, 2010, 2-Disc) Digipak” [Rihanna - Loud - Phiên bản Deluxe (CD + DVD, 2010, 2 đĩa) bao gói Digipak] (bằng tiếng Anh). Retro Unit. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  105. ^ a b "Loud" Couture Edition” ["Loud" phiên bản Couture] (bằng tiếng Anh). Def Jam Recordings. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  106. ^ a b Cụm nguồn phiên bản Ultra Couture:
  107. ^ Vena, Jocelyn (ngày 29 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Initially Against 'Love The Way You Lie (Part II)' With Eminem” [Rihanna ban đầu phản đối "Love The Way You Lie (Part II)" với Eminem] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  108. ^ a b “Loud – Album – Japan Version” [Loud – Album – Phiên bản Nhật Bản] (bằng tiếng Nhật). HMV Nhật Bản. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  109. ^ a b Cụm nguồn phát hành Loud ở định dạng đĩa than vinyl vào ngày 7 tháng 4 năm 2017:
  110. ^ Vick, Megan (ngày 1 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Rocks 'SNL' with 'Shy Ronnie' Video, Performances” [Rihanna khuấy động 'SNL' với video và màn trình diễn 'Shy Ronnie']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  111. ^ Lazerine, Devin (ngày 30 tháng 10 năm 2010). “Video: Rihanna Performs on 'SNL' [Video: Rihanna biểu diễn trên 'SNL']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  112. ^ Lazerine, Devin (ngày 31 tháng 10 năm 2010). “Video: Rihanna Performs on 'X Factor' [Video: Rihanna biểu diễn tại 'X Factor']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  113. ^ Izundu, Chi Chi (ngày 8 tháng 11 năm 2010). “Newsbeat goes backstage at MTV Europe Music Awards” [Newsbeat vào hậu trường Giải thưởng Âm nhạc châu Âu của MTV] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  114. ^ Lazerine, Devin (ngày 9 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Heats Up Italy's 'X Factor' [Rihanna hâm nóng 'X Factor' của Ý]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  115. ^ Lazerine, Devin (ngày 10 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Heats Performs 'Only Girl' on 'Le Grand Journal' [Rihanna Heats biểu diễn 'Only Girl' ở 'Le Grand Journal']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  116. ^ Graham Norton, Colin Farrell, Daniel Radcliffe, Rihanna, Rhod Gilbert (ngày 12 tháng 11 năm 2010). The Graham Norton Show, Season 8, Episode 4 [The Graham Norton Show, Mùa 8, Tập 4] (bằng tiếng Anh). Luân Đôn, Vương quốc Anh: BBC One.
  117. ^ Anitai, Tamar (ngày 15 tháng 11 năm 2010). “Watch Rihanna Perform 'What's My Name?' On MTV's 'The Seven,' Live In Times Square” [Xem Rihanna biểu diễn 'What's My Name?' Trên 'The Seven' của MTV, Trực tiếp ở Quảng trường Thời Đại] (bằng tiếng Anh). MTV Buzzworthy Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  118. ^ Wete, Brad (ngày 17 tháng 11 năm 2010). “Rihanna performs 'What's My Name' on the Late Show with David Letterman” [Rihanna biểu diễn 'What's My Name' trên Late Show with David Letterman]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  119. ^ Gilmore, Story (ngày 17 tháng 11 năm 2010). “Video: Rihanna Performs "Only Girl" And "What's My Name" On GMA” [Video: Rihanna biểu diễn "Only Girl" và "What's My Name" trên chương trình GMA]. Neon Limelight (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  120. ^ Ziegbe, Mawuse (ngày 21 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Opens American Music Awards With Island Flavor” [Rihanna mở màn giải thưởng Âm nhạc Mỹ với Island Flavor] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  121. ^ “AMA 2010 Winners: The Full List” [Danh sách người chiến thắng giải AMA 2010: Danh sách đầy đủ] (bằng tiếng Anh). CBS News. ngày 21 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  122. ^ “loud $5 album download on groupon” [loud có giá tải xuống là $5 trên groupon] (bằng tiếng Anh). Rihanna.com. ngày 22 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  123. ^ Concepcion, Mariel (ngày 13 tháng 12 năm 2010). “Rihanna Performs On 'X-Factor,' Flashes The Papparazzi” [Rihanna biểu diễn trên 'X-Factor', thu hút các tay săn ảnh]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  124. ^ Love, Ryan (ngày 20 tháng 12 năm 2010). “Ofcom to investigate 'X Factor' [Ofcom điều tra vụ 'X Factor'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  125. ^ “Rihanna & Drake's Grammys Performance 2011 (VIDEO, PHOTOS)” [Buổi biểu diễn Grammy 2011 của Rihanna & Drake (VIDEO, ẢNH)]. HuffPost (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  126. ^ Fullerton, Jamie (ngày 15 tháng 2 năm 2011). “Rihanna and Cee Lo Green triumph at the Brit Awards” [Rihanna và Cee Lo Green chiến thắng tại Brit Awards]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  127. ^ Love, Ryan (ngày 11 tháng 2 năm 2011). “Rihanna 'plans raunchy Brits performance' [Rihanna 'lên kế hoạch biểu diễn khiêu dâm ở Anh'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  128. ^ Sperling, Daniel (ngày 13 tháng 2 năm 2011). “Rihanna 'fuming' over Brit Award censorship” [Rihanna 'lên cơn thịnh nộ' vì kiểm duyệt giải Brit] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  129. ^ Blanco, Alvin (ngày 20 tháng 2 năm 2011). “Rihanna, Drake And Kanye Rock NBA All-Star Halftime Show” [Rihanna, Drake và Kanye khuynh đảo chương trình nghỉ giữa hiệp NBA All-Star] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  130. ^ Vena, Jocelyn (ngày 24 tháng 3 năm 2011). “Rihanna To Perform 'California King Bed' At ACM Awards” [Rihanna biểu diễn 'California King Bed' tại ACM Awards] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  131. ^ Warner, Kara (ngày 14 tháng 4 năm 2011). “Rihanna Brings Her 'California King Bed' To 'American Idol' [Rihanna mang chiếc 'California King Bed' (giường đôi kiểu California cỡ lớn) của cô ấy đến 'American Idol'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  132. ^ Lazerine, Devin (ngày 5 tháng 5 năm 2011). “Rihanna migrates to Milan for Nivea's 100th Anniversary” [Rihanna bay đến Milan để kỷ niệm 100 năm thành lập Nivea]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  133. ^ Lazerine, Devin (ngày 6 tháng 5 năm 2011). “Rihanna is white-hot in Paris” [Rihanna cháy bỏng ở Paris]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  134. ^ Maher, Cristin (ngày 10 tháng 5 năm 2011). “Long-Haired Rihanna Boards Cruise for Nivea Campaign” [Rihanna tóc dài lên du thuyền trong chiến dịch Nivea]. PopCrush (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  135. ^ Herrera, Monica (ngày 22 tháng 5 năm 2011). “Britney Spears, Rihanna Kick Off Billboard Music Awards” [Britney Spears, Rihanna khởi động giải thưởng âm nhạc Billboard]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  136. ^ Cina, Mark (ngày 25 tháng 5 năm 2011). “Parents council slams sexy Rihanna-Britney Billboard antics” [Hội đồng phụ huynh lên án những hành động gợi cảm của Rihanna-Britney trên chương trình Billboard] (bằng tiếng Anh). Reuters. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  137. ^ “2011 Toyota Concert Series” [Chuỗi hòa nhạc Toyota 2011]. Today (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  138. ^ Vĩnh Ngọc (ngày 28 tháng 5 năm 2011). “Rihanna khoe vẻ quyến rũ với tóc đỏ” [Đi đầu trong xu hướng nhuộm tóc đỏ cho hè này. Nữ ca sỹ quyến rũ Rihanna còn tạo nhiều kiểu tóc ấn tượng và khiến cô càng xinh đẹp, hấp dẫn hơn.]. Dân Trí. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
  139. ^ Concepcion, Mariel (ngày 10 tháng 2 năm 2011). “Rihanna To Kick Off North American 'Loud' Tour in June” [Rihanna khởi động chuyến lưu diễn 'Loud' Bắc Mỹ vào tháng 6]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  140. ^ Lazerine, Devin (ngày 29 tháng 12 năm 2011). “Rihanna's 'LOUD' Tour Grosses $90 Million” ['LOUD' Tour của Rihanna thu về 90 triệu đô la Mỹ]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  141. ^ Cụm nguồn chỉ số giá cả lạm phát tại Hoa Kỳ:
  142. ^ “Rihanna Plans To Make Fans Part Of Her Loud Show” [Rihanna có kế hoạch thu hút người hâm mộ tham gia buổi hòa nhạc Loud của mình] (bằng tiếng Anh). Contactmusic.com. ngày 17 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  143. ^ Cheung, Nadine (ngày 6 tháng 6 năm 2011). “Rihanna Kicks Off Loud Tour With A Seductive Lap Dance” [Rihanna khởi động Lour Tour bằng điệu múa trên đùi đầy quyến rũ]. PopCrush (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  144. ^ Blistein, Jon (ngày 8 tháng 6 năm 2011). “Drake Joins Rihanna Onstage: Watch” [Drake gia nhập Rihanna trên sân khấu: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  145. ^ Cline, Georgette (ngày 20 tháng 7 năm 2011). “Rihanna takes shots, brings out Kanye West at N.Y show” [Rihanna uống rượu, mời Kanye West tại show New York]. The Boombox (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  146. ^ Wete, Brad (ngày 22 tháng 7 năm 2011). “Rihanna gets LOUD at New Jersey's Izod Center with surprise guest Jay-Z: EW's live review” [Rihanna trở nên LOUD tại trung tâm Izod của New Jersey với vị khách bất ngờ Jay-Z: Bài đánh giá trực tiếp của EW]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  147. ^ Wete, Brad (ngày 24 tháng 6 năm 2011). “Cee Lo leaves Rihanna's LOUD tour” [Cee Lo rời khỏi LOUD tour của Rihanna]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  148. ^ a b Oliver 2011, tr. 274.
  149. ^ Gregory, Jason (ngày 25 tháng 1 năm 2011). “Rihanna Adds New Gigs To UK Arena Tour” [Rihanna bổ sung thêm chặng diễn ở tour sân vận động ở Anh]. Gigwise (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  150. ^ Oliver 2011, tr. 277.
  151. ^ Brean, Jon (ngày 17 tháng 6 năm 2011). “Rihanna redefines Loud” [Rihanna tái định nghĩa Loud]. Star Tribune (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  152. ^ “Loud Tour Live at the O2 – DVD – United States” [Loud Tour Live at the O2 – Đĩa DVD – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 14 tháng 12 năm 2012. ASIN B00AAQ7LP6. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  153. ^ a b Loud by Rihanna Reviews” [Các bài đánh giá Loud của Rihanna] (bằng tiếng Anh). AnyDecentMusic?. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  154. ^ a b “Reviews for Loud by Rihanna” [Các đánh giá dành cho Loud của Rihanna] (bằng tiếng Anh). Metacritic. ngày 16 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  155. ^ a b Koski, Genevieve (ngày 23 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  156. ^ a b Brown, August (ngày 16 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  157. ^ a b Mackay, Emily (ngày 12 tháng 11 năm 2010). Mandle, Chris (biên tập). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  158. ^ Maerz, Melissa (ngày 30 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  159. ^ a b Anderson, Stacey (ngày 16 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  160. ^ Reed, James (ngày 15 tháng 11 năm 2010). “Rihanna returns to dance floor on 'Loud' [Rihanna trở lại với sàn nhảy qua 'Loud']. Boston.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  161. ^ Power, Ed (ngày 19 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud – Pop chanteuse lets the sunshine back in” [Đánh giá: Loud – Nhạc pop chanteuse đưa ánh nắng quay trở lại]. Hot Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  162. ^ Montgomery, Hugh (ngày 14 tháng 11 năm 2010). “Review: Loud” [Đánh giá: Loud]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  163. ^ Lazerine, Devin (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Rihanna makes noise on charts with first No.1 single, first week album sales” [Rihanna gây ồn ào trên các với đĩa đơn No.1 đầu tiên, doanh số album tuần đầu]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  164. ^ “Top R&B/Hip-Hop Albums – Week of December 4, 2010” [Top R&B/Hip-Hop Albums – Tuần ngày 4 tháng 12 năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  165. ^ Caulfield, Keith (ngày 6 tháng 7 năm 2011). “Adele, Katy Perry Rule Mid-Year SoundScan Charts” [Adele, Katy Perry thống trị bảng xếp hạng SoundScan giữa năm]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  166. ^ “2011 Billboard 200 Year-End Top-selling Albums” [Album bán chạy nhất cuối năm 2011 của Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  167. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2024.
  168. ^ Trust, Gary (ngày 23 tháng 6 năm 2015). “Ask Billboard: Rihanna's Best-Selling Songs & Albums” [Hỏi Billboard: Bài hát và Album bán chạy nhất của Rihanna]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  169. ^ Oliver 2011, tr. 212.
  170. ^ Billboard Canadian Albums – Week of December 4, 2010” [Billboard Canadian Albums – Tuần ngày 4 tháng 12 năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  171. ^ Williams, John (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Rihanna gets 'Loud' at No. 1” [Rihanna đưa 'Loud' lên top 1] (bằng tiếng Anh). Canoe.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  172. ^ a b “Chứng nhận album Canada – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  173. ^ Cadet, Thierry (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Top Albums : Grégoire danse en tête grâce à 23 559 fans” [Album hàng đầu: Grégoire dẫn đầu nhờ 23.559 người mua] (bằng tiếng Pháp). Charts in France. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  174. ^ Decant, Charles (ngày 29 tháng 12 năm 2010). “Disques : Mylène Farmer toujours en tête, Les Prêtres et Nolwenn en hausse” [Kỷ lục: Mylène Farmer vẫn dẫn đầu, Les Prêtres và Nolwenn đang trên đà thăng hạng] (bằng tiếng Pháp). Les Agences TV. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  175. ^ Hamard, Jonathan (ngày 30 tháng 4 năm 2013). “Rihanna choisit "Right Now" (feat. David Guetta), nouvel extrait de l'album "Unapologetic" [Rihanna chọn "Right Now" (feat. David Guetta), bài mới trích từ album "Unapologetic"] (bằng tiếng Pháp). Charts in France. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  176. ^ a b "Australiancharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  177. ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  178. ^ a b "Italiancharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  179. ^ a b "Swisscharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  180. ^ a b "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  181. ^ a b c Sexton, Paul (ngày 26 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Scores Euro Albums, Singles Chart Double” [Rihanna ghi điểm cả hai bảng xếp hạng album và đĩa đơn châu Âu]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  182. ^ Dinh, James (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Rihanna Makes U.K. Chart History” [Rihanna làm nên lịch sử bảng xếp hạng Anh] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  183. ^ “Cardle at No 1 again - Eminem/Rihanna & Take That scoop 2010 crowns” [Cardle lại đứng ở vị trí số 1 - Eminem/Rihanna & Take That giành vương miện năm 2010] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 2 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  184. ^ a b “Chứng nhận album Anh Quốc – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  185. ^ Lane, Dan (ngày 20 tháng 1 năm 2012). “The biggest selling R&B and hip hop albums and singles of 2011 revealed” [Tiết lộ những album và đĩa đơn R&B và hip hop bán chạy nhất năm 2011] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  186. ^ “Adele and Ed Sheeran push digital albums sales over the 100 million milestone” [Adele và Ed Sheeran đẩy doanh số album kỹ thuật số vượt mốc 100 triệu] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 3 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  187. ^ Moss, Liv (ngày 19 tháng 3 năm 2015). “Official Biggest Selling Albums of the Millennium so far revealed!” [Album Official bán chạy nhất thiên niên kỷ cho đến nay đã được tiết lộ!] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  188. ^ a b Firecloud, Johnny (ngày 9 tháng 11 năm 2011). “Rihanna Drops 'Talk That Talk' Tracklist, Jay-Z Collab” [Rihanna tung danh sách bài hát trong 'Talk That Talk', có hợp tác với Jay-Z] (bằng tiếng Anh). CraveOnline. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  189. ^ “Global Music Report 2012” [Báo cáo âm nhạc quốc tế năm 2012] (PDF) (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. tr. 34. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  190. ^ a b “Archive Chart” [Lưu trữ xếp hạng] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  191. ^ a b "GFK Chart-Track Albums: Week 27, 2007". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  192. ^ a b "Norwegiancharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  193. ^ a b "Danishcharts.dk – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  194. ^ a b "Ultratop.be – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  195. ^ a b "Ultratop.be – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  196. ^ a b "Austriancharts.at – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  197. ^ a b “Российские музыкальные чарты. Неделя 48 — 2010” [Bảng xếp hạng âm nhạc Nga. Tuần 48 - 2010] (bằng tiếng Nga). Lenta.ru. ngày 10 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  198. ^ a b "Charts.nz – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  199. ^ a b “Oficjalna lista sprzedaży” [OLiS – Bảng xếp hạng bán nhạc chính thức] (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  200. ^ a b “Loud / Rihanna” [Loud / Rihanna] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  201. ^ a b "Dutchcharts.nl – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  202. ^ a b “MAHASZ – Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége” [MAHASZ – Hiệp hội các nhà xuất bản đĩa hát Hungary] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  203. ^ a b "Spanishcharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  204. ^ “Grammy Awards 2011: Winners and nominees for 53rd Grammy Awards” [Giải Grammy 2011: Người chiến thắng và đề cử cho Giải Grammy lần thứ 53]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  205. ^ Goodacre, Kate; Fowler, Tara (ngày 23 tháng 5 năm 2011). Billboard Music Awards 2011: The winners in full" [Giải thưởng Âm nhạc Billboard năm 2011: Toàn bộ những người chiến thắng] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  206. ^ Fowler, Tara (ngày 21 tháng 11 năm 2011). “American Music Awards 2011 - Full list of winners” [Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2011: Danh sách đầy đủ người thắng giải] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  207. ^ “Grammy Awards 2012: Complete Winners And Nominees List” [Giải Grammy năm 2012: Danh sách đầy đủ người thắng giải và người đề cử]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  208. ^ Sager, Jessica (ngày 1 tháng 4 năm 2012). “2012 Juno Awards Winners: Justin Bieber, Drake + More Take Home Trophies” [Người chiến thắng giải Juno năm 2012: Justin Bieber, Drake + nhiều người rinh cúp về nhà]. PopCrush (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  209. ^ “The 100 Greatest Albums of the 2010s: Staff Picks” [100 album vĩ đại nhất thập niên 2010: Do nhân viên lựa chọn]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  210. ^ “The Top 33 Albums Of 2010” [Danh sách 33 album hàng đầu của năm 2010] (bằng tiếng Anh). Popjustice. ngày 20 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  211. ^ “Albums of 2010: How Guardian music critics voted” [Album của năm 2010: Các nhà phê bình Guardian đã bình chọn như thế nào]. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  212. ^ “The 40 best albums of 2010” [40 xuất sắc nhất năm 2010]. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  213. ^ Daly, Rhian (ngày 15 tháng 4 năm 2021). “Rihanna: every album ranked and rated” [Rihanna: xếp hạng và đánh giá mỗi album]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  214. ^ “Loud – Album – Rihanna” [Loud – Album – Rihanna] (bằng tiếng Anh). Spotify. 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  215. ^ “Loud (Explicit Version) [+video] [+digital booklet] – Album – United States” [Loud (Phiên bản Explicit) [+video] [+tập sách kỹ thuật số] – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 18 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  216. ^ “Loud – Album – United States” [Loud – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. ngày 18 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  217. ^ “Loud: CD+DVD Edition – Album – United States” [Loud: Phiên bản CD+DVD – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 20 tháng 9 năm 2011. ASIN B005HZQOY4. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  218. ^ Thông tin "I'm with You" được lấy từ: Avril Lavigne (2002). Let Go [Let Go] (Phần bìa trong) (bằng tiếng Anh). Arista.
  219. ^ Loud – Rihanna – Credits” [Loud – Rihanna – Phần ghi công] (bằng tiếng Anh). AllMusic. ngày 16 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  220. ^ “Top 40 Urban Albums & Singles Chart” [Bảng xếp hạng Top 40 Album & Đĩa đơn Urban] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  221. ^ "Rihanna Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  222. ^ “Top of the Shops - službena tjedna lista prodanih albuma u Hrvatskoj” [Top of the Shops – Danh sách album bán ra hàng tuần chính thức ở Croatia] (bằng tiếng Croatia). HDU Toplista. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  223. ^ “ČNS IFPI” [IFPI Séc] (bằng tiếng Séc). IFPI Cộng hòa Séc. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  224. ^ "Rihanna: Loud" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  225. ^ "Lescharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  226. ^ “greekcharts.com – Rihanna – Loud” [Bảng xếp hạng greekcharts.com – Rihanna – Loud] (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  227. ^ "Mexicancharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  228. ^ "Portuguesecharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  229. ^ "Swedishcharts.com – Rihanna – Loud" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  230. ^ "Rihanna | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  231. ^ “Chart Archive: Top 40 R&B Albums Archive” [Lưu trữ xếp hạng: Lưu trữ Top 40 album R&B] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 20 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  232. ^ “Rihanna Chart History (Billboard 200)” [Lịch sử bảng xếp hạng Rihanna (Billboard 200)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  233. ^ “Rihanna Chart History (Top R&B/Hip Hop Albums)” [Lịch sử bảng xếp hạng Rihanna (Top R&B/Hip Hop Albums)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  234. ^ “Classement Albums – année 2010” [Xếp hạng album – năm 2010] (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  235. ^ “Classement Téléchargments Albums – année 2010” [Xếp hạng album tải xuống – năm 2010] (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  236. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” [Bảng xếp hạng 100 album hàng năm] (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  237. ^ “Best selling albums in 2010 of Hungary” [Album bán chạy nhất năm 2010 của Hungary] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  238. ^ “Best of 2010” [Xuất sắc nhất năm 2010] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Thu âm Ireland. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  239. ^ “Dutch charts portal: Jaaroverzichten – Album 2010” [Cổng thông tin bảng xếp hạng Hà Lan: Tổng quan hàng năm – Album 2010] (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien / hitparade.ch. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  240. ^ “Top 100 – annual chart – 2010 Poland Albums” [Top 100 – bảng xếp hạng hàng năm – Album Ba Lan 2010] (bằng tiếng Ba Lan). ZPAV. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  241. ^ “Swiss Year-End Charts 2010” [Bảng xếp hạng cuối năm của Thụy Sĩ 2010] (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  242. ^ “Cardle at No 1 again – Eminem/Rihanna & Take That scoop 2010 crowns” [Cardle lại đứng ở vị trí số 1 – Eminem/Rihanna & Take That giành vương miện năm 2010] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 2 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  243. ^ “ARIA End Of Year Chart 2011” [Bảng xếp hạng cuối năm ARIA 2011] (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 1 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  244. ^ “Ö3 Austria Top 40 – Longplay Charts 2011” [Ö3 Austria Top 40 – Bảng xếp hạng Longplay 2011] (bằng tiếng Đức). Hitradio Ö3. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  245. ^ “Ultratop.be - Rihanna - Loud” [Ultratop.be - Rihanna - Loud] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  246. ^ “Year End Charts: Top Canadian Albums” [Bảng xếp hạng cuối năm: Album hàng đầu của Canada]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  247. ^ “Album-Top 100” [Album-Top 100] (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  248. ^ “Classement Albums – année 2011” [Xếp hạng album – năm 2011] (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  249. ^ “Classement Téléchargments Albums – année 2011” [Xếp hạng album tải xuống – năm 2011] (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  250. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” [Bảng xếp hạng 100 album hàng năm] (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  251. ^ “Best selling albums in 2011 of Hungary” [Album bán chạy nhất năm 2011 của Hungary] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  252. ^ “Dutch charts portal: Jaaroverzichten – Album 2011” [Cổng thông tin bảng xếp hạng Hà Lan: Tổng quan hàng năm – Album 2011] (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  253. ^ “Top 100 – annual chart – 2011 Poland Albums” [Top 100 – bảng xếp hạng hàng năm – Album Ba Lan 2011] (bằng tiếng Ba Lan). ZPAV. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  254. ^ “Top 50 Albumes 2011” [50 Album hàng đầu năm 2011] (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). PROMUSICAE. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  255. ^ “Årslista Album, 2011” [Danh sách Album hàng năm, 2011] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  256. ^ “Swiss Year-End Charts 2011” [Bảng xếp hạng cuối năm của Thụy Sĩ 2011] (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  257. ^ “The Top 20 biggest selling albums of 2011 revealed!” [Top 20 album bán chạy nhất năm 2011 lộ diện!] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 2 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  258. ^ “Billboard 200 Year-End 2011” [Billboard 200 cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  259. ^ “Billboard Digital Albums Year-End 2011” [Billboard Digital Albums cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  260. ^ “Billboard Top R&B/Hip-Hop Albums Year-End 2011” [Billboard Top R&B/Hip-Hop Albums cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  261. ^ “IFPI Global Music Report 2012” [Báo cáo Âm nhạc Toàn cầu IFPI 2012] (PDF) (bằng tiếng Anh). tr. 34. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  262. ^ “The Best of 2012: The Year In Music” [Điều tuyệt vời nhất năm 2012: Năm của âm nhạc]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  263. ^ “Årslista Album – År 2014” [Danh sách album thường niên – Năm 2014] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  264. ^ “Jaaroverzichten 2021” [Xếp hạng năm 2021] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  265. ^ “Jaaroverzichten 2022” [Xếp hạng năm 2022] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  266. ^ “Jaaroverzichten 2023” [Xếp hạng năm 2023] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  267. ^ “Årslista Album, 2023” [Danh sách hàng năm Album, 2023] (bằng tiếng Đức). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  268. ^ “2019 ARIA End of Decade Albums Chart” [Bảng xếp hạng album cuối thập kỷ ARIA 2019] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  269. ^ Copsey, Rob (ngày 11 tháng 12 năm 2019). “The UK's Official Top 100 biggest albums of the decade” [Top 100 album lớn nhất thập kỷ chính thức của Vương quốc Anh] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  270. ^ “Decade-End Charts: Billboard 200” [Bảng xếp hạng cuối thập kỷ: Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  271. ^ “Ireland's Top 50 biggest female artist albums” [Top 50 album của nữ nghệ sĩ lớn nhất Ireland] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  272. ^ “Chứng nhận album Áo – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  273. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2011” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  274. ^ “Chứng nhận album Brasil – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  275. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  276. ^ Hamard, Jonathan. “Rihanna : l'album "Unapologetic" frôle les 3 millions de ventes en six moi” [Rihanna: album "Unapologetic" đạt doanh số 3 triệu trong 6 tháng] (bằng tiếng Pháp). Charts in France. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  277. ^ “Chứng nhận album Pháp – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  278. ^ “Chứng nhận IFPI Trung Đông – 2011” (bằng tiếng Anh). IFPI Trung Đông. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  279. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Rihanna; 'Loud')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  280. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2011” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  281. ^ “The Irish Charts - 2011 Certification Awards - Multi Platinum” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Thu âm Ireland. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  282. ^ “Chứng nhận album Ý – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Loud" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  283. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024. Chọn 2011年6月 ở menu thả xuống
  284. ^ “Latest Gold / Platinum Albums” (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 17 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  285. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2011 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  286. ^ “Chứng nhận album Bồ Đào Nha – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  287. ^ “Chứng nhận album Nga – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Nga). Национальная федерация музыкальной индустрии (NFPF). Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  288. ^ “Chứng nhận album Singapore – Rihanna – Loud” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Singapore. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  289. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024. Chọn Álbumes dưới "Categoría", chọn 2008 dưới "Año". Chọn 25 dưới "Semana". Nhấn vào "BUSCAR LISTA".
  290. ^ “Veckolista Album, vecka 37, 2013 | Sverigetopplistan” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  291. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Loud')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  292. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2011”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
  293. ^ “Loud – Album – Germany” [Loud – Album – Đức] (bằng tiếng Đức). Amazon. ngày 12 tháng 11 năm 2010. ASIN B00428ZRFY. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  294. ^ “Loud – Album – Ireland” [Loud – Album – Ireland] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  295. ^ “Loud – Album – Netherlands” [Loud – Album – Hà Lan] (bằng tiếng Hà Lan). Amazon. ngày 12 tháng 11 năm 2010. ASIN B00428ZRFE. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  296. ^ “Loud – Album – France” [Loud – Album – Pháp] (bằng tiếng Pháp). Amazon. ngày 15 tháng 11 năm 2010. ASIN B00428ZRFY. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  297. ^ “Loud – Album – New Zealand (CD + DVD)” [Loud – Album – New Zealand (CD + DVD)] (bằng tiếng Anh). CD Wow. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  298. ^ “Loud – Album – Portugal (CD + DVD)” [Loud – Album – Bồ Đào Nha (CD + DVD)] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). CDGO. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  299. ^ “Loud – Album – Philippines (CD + DVD)” [Loud – Album – Philippines (CD + DVD)] (bằng tiếng Anh). CDandLP. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  300. ^ “Loud – Album – United Kingdom” [Loud – Album – Anh Quốc] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 15 tháng 11 năm 2010. ASIN B00428ZRFE. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  301. ^ “Loud – Album – Brazil” [Loud – Album – Brasil] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). iMusic Brasil. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  302. ^ “Loud – Album – Mexico” [Loud – Album – Mexico] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Amazon. ngày 16 tháng 11 năm 2010. ASIN B00428ZRFE. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  303. ^ “Loud – Album – United States (Couture Edition CD + DVD)” [Loud – Album – Hoa Kỳ (Phiên bản Couture CD + DVD)] (bằng tiếng Anh). Best Buy. ngày 16 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  304. ^ “Loud – Album – Poland” [Loud – Album – Ba Lan] (bằng tiếng Ba Lan). Universal Music Group. ngày 19 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  305. ^ “Loud – Album – Indonesia” [Loud – Album – Indonesia] (bằng tiếng Anh). Disc Tarra. ngày 2 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  306. ^ Cụm nguồn phát hành Loud tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 1 năm 2011:
    • CD Nhật Bản: “Loud – Album – Japan” [Loud – Album – Nhật Bản] (bằng tiếng Nhật). CDJapan. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
    • CD + DVD Nhật Bản: “Loud – Album – Japan (CD + DVD)” [Loud – Album – Nhật Bản (CD + DVD)] (bằng tiếng Nhật). CDJapan. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Thiên tài Fontaine và cái kết chưa phải kết thúc
Thiên tài Fontaine và cái kết chưa phải kết thúc
Đây là câu chuyện của một lớp người của cỡ 500 năm trước, nối tiếp câu chuyện “Lịch sử và sự kiện đáng nhớ của Fontaine”
Giới thiệu siêu ứng dụng đầu tư chứng khoán PineX
Giới thiệu siêu ứng dụng đầu tư chứng khoán PineX
PineX là ứng dụng thuộc công ty Pinetree - Thành viên của Hanwha Investment and Securities Co.Ltd., thuộc tập đoàn Hanwha, một trong bảy tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc
The Alley Flash - Weapon Guide Genshin Impact
The Alley Flash - Weapon Guide Genshin Impact
The Alley Flash is a Weapon Event's weapon used to increase the damage dealt by the wearer, making it flexible to the characters
Hành trình 18 năm từ TTTM sang chảnh bậc nhất đến thảm cảnh phá sản của Parkson
Hành trình 18 năm từ TTTM sang chảnh bậc nhất đến thảm cảnh phá sản của Parkson
Parkson tham gia vào thị trường Việt Nam từ năm 2005 và trở thành một trong những siêu thị bán lẻ hàng hiệu quốc tế đầu tiên tại đây.