Mẫu vật này hơi nhỏ hơn một chút so với mang Ấn Độ và thử nghiệm DNA chỉ ra rằng nó là khác biệt với các loài mang mới phát hiện gần đây[3][4][5]. Một số người cho rằng nó là phân loài của mang Fea (Muntiacus feae) với danh pháp M. f. rooseveltorum[1][6], với phạm vi phân bố của loài này là vùng núi xa hơn về phía tây bắc, được chia tách bởi vùng đất thấp. Tuy nhiên, khi không/chưa có chứng cứ bổ sung thêm thì vị trí chính xác của mang Roosevelt không thể được định rõ. Phức tạp hơn là mối quan hệ của nó với một vài tên gọi được đề xuất sau này, bao gồm M. truongsonensis, M. putaoensis và M. puhoatensis.
Có một vài tuyên bố cho rằng đã tái phát hiện được loài mang này[7], từ chứng cứ bao gồm các hộp sọ mà những người dân bản địa sống ven dãy núi Trường Sơn giữa Lào và Việt Nam sở hữu. Gần đây hơn, các bức ảnh do máy ảnh bẫy chụp lại tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên (Thường Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam) dường như đã nhận dạng được hai cá thể[8]. Sau một thời gian theo dõi, mới đây, các nhà khoa học Việt Nam xác định chỉ còn khoảng 30 cá thể mang Roosevelt[9].
^Amato G., Egan M. và Schaller G. B. 2000. Mitochondrial DNA variation in muntjac: evidence for discovery, rediscovery, and phylogenetic relationships. Trong: E. S. Vrba và G. B. Schaller (chủ biên), Antelopes, Deer, and Relatives: Fossil Record, Behavioral Ecology, Systematics, and Conservation, tr. 285–295. Nhà in Đại học Yale, New Haven, Hoa Kỳ và London, Vương quốc Anh. ISBN 0300127766, 9780300127768.