Xin hãy đóng góp cho bài viết này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. Thông tin thêm có thể được tìm thấy tại trang thảo luận. (7-2024) |
Nikita Sergeyevich Khrushchyov | |
---|---|
Ники́та Серге́евич Хрущёв | |
Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô | |
Nhiệm kỳ 14 tháng 9 năm 1953 – 14 tháng 10 năm 1964 | |
Tiền nhiệm | Iosif Stalin giữ chức Tổng Bí thư |
Kế nhiệm | Leonid Brezhnev giữ chức Tổng Bí thư |
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô | |
Nhiệm kỳ 27 tháng 3 năm 1958 – 14 tháng 10 năm 1964 | |
Đồng chủ tịch | |
Phó Chủ tịch | |
Tiền nhiệm | Nikolai Bulganin |
Kế nhiệm | Alexei Kosygin |
Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina (Bolshevik) | |
Nhiệm kỳ 26 tháng 12 năm 1947 – 16 tháng 12 năm 1949 | |
Tiền nhiệm | Lazar Kaganovich |
Kế nhiệm | Leonid Melnikov |
Nhiệm kỳ 27 tháng 1 năm 1938 – 3 tháng 3 năm 1947 | |
Tiền nhiệm | Stanislav Kosior |
Kế nhiệm | Lazar Kaganovich |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Tỉnh Kursk, Đế quốc Nga | 15 tháng 4 năm 1894
Mất | 11 tháng 9 năm 1971 (77 tuổi) Moskva, Nga Xô viết, Liên Xô |
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Novodevichy, Moskva |
Đảng chính trị | KPSS (1918–1964) |
Phối ngẫu | Yefrosinia Pisareva (cưới 1914–her death1919) Nina Khrushcheva (cưới 1965) |
Con cái | 5
|
Alma mater | Học viện Công nghiệp Moskva |
Tặng thưởng | |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Liên Xô |
Phục vụ | Hồng quân |
Năm tại ngũ | 1941–45 |
Cấp bậc | Trung tướng |
Chỉ huy | Lực lượng Vũ trang Liên Xô |
Tham chiến | Thế chiến II |
Ủy viên trung ương
Chức vụ khác
|
Nikita Sergeyevich Khrushchyov[b] (cũng viết là: Khrushchev; phiên âm tiếng Việt: Khơ-rút-sốp hoặc Khơ-rút-xốp; 15 tháng 4 [lịch cũ 3 tháng 4] năm 1894 – 11 tháng 9 năm 1971) là nhà lãnh đạo của Liên bang Xô viết trong cuộc Chiến tranh Lạnh, đồng thời là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1953 đến 1964, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô (tức Thủ tướng) từ năm 1958 tới 1964. Khrushchev còn là người ủng hộ chủ nghĩa bài Stalin, cũng như việc triển khai Chương trình không gian Liên Xô trong thời gian đầu. Thời kì này chứng kiến nhiều cải tổ tương đối tự do trong các lĩnh vực của chính sách đối nội. Tuy nhiên, những đảng viên khác đã phế truất Khrushchev trong năm 1964. Thay vào đó, chức vụ Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng được trao cho Leonid Brezhnev, còn Alexei Kosygin lên làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Nikita Khrushchev chào đời ngày 15 tháng 4 năm 1894,[c] tại làng Kalinovka thuộc quận Dmitrievsk, tỉnh Kursk, Đế quốc Nga (sát biên giới Ukraina ngày nay).[3] Cha mẹ ông, Sergei Nikanorovich Khrushchev và Aksinia Ivanovna Khrushcheva, đều xuất thân từ những gia đình nông dân gốc Nga bần cùng.[4] Sau khi đẻ Nikita hai năm, vợ chồng Khrushchev sinh thêm một đứa con gái, đặt tên là Irina.[5] Do gia cảnh vốn dĩ éo le, Sergei thường xuyên phải xa vợ và con cái để sang Donbass xoay sở kiếm sống.[6]
Giáo viên của Khrushchev, Lydia Shevchenko, về sau kể rằng bản thân bà chưa thấy một ngôi làng nào mà nghèo như Kalinovka.[7]
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Dữ liệu từ Wikidata |