Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ | |
---|---|
釋慧士 | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Giáo phái | Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hội đồng Tăng già Bản thệ |
Trường phái | Đại thừa |
Dòng | Lâm Tế tông đời thứ 44 |
Môn phái | Liễu Quán thế hệ thứ 10 |
Chùa | Thị Ngạn Am, chùa Già Lam, Tp Hồ Chí Minh |
Được biết đến vì | Nhân vật Bất đồng chính kiến tại Việt Nam |
Giáo dục | Nhà văn, nhà thơ, dịch giả |
Học hàm | Giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn |
Pháp danh |
|
Bút danh | Thị Ngạn (是岸) |
Cá nhân | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Quê hương | Quảng Bình, Việt Nam |
Sinh | Phạm Văn Thương 15 tháng 2 năm 1943 Paksé, Lào |
Mất | 24 tháng 11 năm 2023 Chùa Phật Ân, Đồng Nai | (80 tuổi)
Sự nghiệp tôn giáo | |
Vị trí | Đệ lục Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (truy tôn, 2024) |
Xuất gia | lúc 7 tuổi tại Viện Hải Đức (Nha Trang), rồi Thiền viện Quảng Hương Già Lam (Sài Gòn) |
Tác phẩm | Bách khoa Phật học Đại Tự điển (cùng Thích Trí Siêu) |
Chức vụ trước |
|
Giải thưởng |
|
Thích Tuệ Sỹ (15 tháng 2 năm 1943 – 24 tháng 11 năm 2023), tục danh Phạm Văn Thương, là một vị Hoà thượng, học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với Chính phủ Việt Nam. Ông là Đệ lục Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).
Ông thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức[1]. Ông được giới học giả Việt Nam[2] đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật.[3] Lúc bị bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.[4]
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15 tháng 02 năm 1943 theo khai sanh, tuổi thật sinh ngày 05/04/1945 (nhằm ngày 23 tháng 02 năm Ất dậu), tại thành phố Pakse, tỉnh Champasak, Lào, nguyên quán xã Nghĩa Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình, Việt Nam.[5]
Năm 1952, ông được cha mẹ gởi lên chùa Trang Nghiêm, làng Tân An, thành phố Paksé, Lào.
Năm 1954, khi được 9 tuổi, ông được thầy chính thức thế phát xuất gia. Đến năm 12 tuổi, vị thầy nhận thấy khả năng và thiên tư đặc biệt của người học trò, nên mong muốn đưa ông về Việt Nam để rộng đường tu học.
Năm 1960, ông trở về Việt Nam, sống tại chùa Bồ đề, một ngôi chùa nhỏ gần cầu Gia Hội, Huế.
Năm 1961, 16 tuổi, ông thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại Sài Gòn. Năm này, ông thọ an cư Sa-di giới đầu tiên tại chùa Phật Ân, tỉnh Tiền Giang.
Năm 1964, học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh, Phân khoa Phật học niên khóa 1965.
Năm 1973, Sa-di Tuệ Sỹ chính thức thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn Phước Huệ tổ chức tại Phật học viện Trung phần, do HT. Đàn đầu Thích Phúc Hộ, HT. Yết-ma Thích Giác Tánh, Giáo thọ sư HT. Thích Trí Nghiêm, Thích Huệ Hưng.
Ông tốt nghiệp Viện Cao đẳng Phật học năm 1964, Viện Đại học Vạn Hạnh phân khoa Phật học năm 1965, được đặc cách bổ nhiệm là Giáo sư thực thụ Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng. Ông là Chủ bút của tạp chí Tư tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi hành (1969–1972), Thời tập (1973–1975). Ngoài ra, ông cũng hiểu biết rất nhiều trong lĩnh vực triết học Tây phương. Ông là người đầu tiên thuyết trình về Michel Foucault tại Việt Nam.
Sau năm 1975 ông về lại Nha Trang, đến năm 1977 thì vào Thành phố Hồ Chí Minh sống tại Thị Ngạn Am, chùa Già Lam.
Đầu năm 1978, ông bị đưa đi học tập cải tạo 3 năm, đến năm 1981 thì được trả tự do.
Ngày 1 tháng 4 năm 1984 ông bị bắt cùng với ông Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát). Tổ chức Ân xá Quốc tế tin rằng nguyên nhân việc bắt giữ Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu là do 2 ông là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) và các lưu tâm cũng như kính trọng các công trình nghiên cứu về Phật giáo và tác phẩm của họ đã phát sinh vào thời điểm chính quyền Việt Nam đang cố gắng kiểm soát hội Phật giáo[6].
Tháng 9 năm 1988, ông và Lê Mạnh Thát bị tuyên án tử hình vì tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Tháng 11 năm 1988, sau một cuộc vận động giảm án, bản án được giảm xuống còn tù chung thân. Ngày 1 tháng 9 năm 1998, ông được thả tự do từ trại Ba Sao–Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Trước khi thả, nhà cầm quyền yêu cầu ông ký vào lá đơn xin khoan hồng để gửi lên Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Ông trả lời: "Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi!". Công an nói không viết đơn thì không thả, ông không viết và tuyệt thực. Chính quyền đã phải phóng thích ông sau 10 ngày tuyệt thực[7]. Một năm sau đó, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi[8]
Năm 1998, tổ chức Human Rights Watch đã tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards cho ông và 7 người Việt khác (Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Tần, Phạm Thái Thủy, Thích Trí Siêu và 2 người được giấu tên)[9][10]. Tháng 4 năm 2000, công an đã đến khám xét chùa nơi cư ngụ của Thích Quảng Độ và Thích Tuệ Sỹ. Năm 2004, đài RFA loan tin rằng ông Thích Tuệ Sỹ vẫn còn đang bị quản thúc tại gia[11].
Năm 2003, Giáo hội Phật giáo Viêt Nam Thống nhất tổ chức Đại hội bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ được cung thỉnh làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa đạo.[12]
Năm 2005, Giáo chỉ số 2 của Đệ tứ Tăng thống, Hòa thượng Thích Huyền Quang cách chức Phó Viện Trưởng Viện Hóa đạo của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ và loại trừ Hòa thượng khỏi Giáo hội.[12]
Ngày 12/05/2019, Đệ ngũ Tăng thống, Hòa thượng Thích Quảng Độ ban hành Giáo chỉ số 19-VTT/TT/GC cung thỉnh hòa thượng đăng lâm pháp tịch vào hàng Trưởng lão Hội đồng Giáo phẩm Trung ương của Viện Tăng thống.[13]
Ngày 24/05/2019, Hòa thượng Thích Quảng Độ ban hành Quyết định số 14-VTT/TT/QĐ thỉnh cử Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ thay thế Đức Tăng thống vì trọng bệnh để lãnh đạo GHPGVNTN ở vị trí Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.[14]
Ngày 20/04/2020, nhân lễ chung thất của Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phụng thừa Quyết định Ủy thác Quyền Điều hành Viện Tăng thống trở thành Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống GHPGVNTN.[13]
Ngày 10/05/2021, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ ra Thông bạch cung thỉnh thành lập Hội đồng Hoằng pháp do Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố vấn Chỉ đạo, Hòa thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư ký và Hòa thượng Thích Nguyên Siêu làm Phó Thư ký.[15]
Ngày 27/11/2021, Hội đồng Hoằng pháp tổ chức Đại hội lần I. Đại hội đã đồng thuận đề nghị của Cố vấn Hội đồng Hoằng pháp, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ thành lập Hội đồng Phiên dịch Tam tạng Lâm thời gồm có:
Ngày 21/08/2022, tại Lễ phát nguyện và suy tôn Hội đồng Giáo phẩm Trung ương cử hành tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, Đồng Nai, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ được suy cử làm Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống GHPGVNTN.[17]
Ông viên tịch 4 giờ chiều ngày 24 tháng 11 năm 2023 tại chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai sau thời gian trị bệnh, thọ 80 tuổi.[18]
Ngày 09 tháng 03 năm 2024, tại Húy kỵ cố Hòa thượng Thích Quảng Độ tổ chức tại chùa Từ Hiếu, quận 8 TPHCM, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương suy tôn giác linh cố Hòa thượng làm Đệ lục Tăng thống GHPGVNTN[19].
Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u... Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ.[20]
Bùi Giáng viết về thơ Tuệ Sỹ
Vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất của Việt Nam hiện nay. Tôi xin gọi hai vị này [Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát] là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.[21]
Đây đích thực là một vị Chân tu, một Trí thức lớn, một nhà Phật học uyên thâm, một Nhân cách văn hoá không chỉ của Phật giáo mà của Dân tộc.[22]
PGS.TS Mạc Văn Trang
Thầy không làm tủi nhục kẻ sỹ của bao thời đại và không làm nhụt chí của những thế hệ kẻ sĩ tương lai.[23]
Thích Thái Hòa
Công lao lớn nhất của ông là về mặt tư tưởng, hiểu theo nghĩa là làm sáng tỏ đạo Phật. Thầy còn trẻ mà đã rất già dặn, là giảng viên đại học có hiểu biết và kiến thức thông tuệ.[24]
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt
"Đọc thơ của Thầy tôi phải đọc với cảm quan của một người biết ít nhiều về Phật học trong khi tôi không có nền tảng Phật học nhiều và sâu" Tôi không dám nghĩ rằng mình cảm nhận được sự uyên bác của thầy trong thơ, không dám nói mình có thể hiểu được hết[24]
Nhà thơ Đỗ Trung Quân
Thơ Tuệ Sỹ, ngôn ngữ đời thường để biểu hiện tấm lòng bồ tát.[25]
Nguyễn Mạnh Trinh
Tấm gương của Hòa thượng Tuệ Sỹ đã trở thành niềm khích lệ rất lớn đối với các thế hệ tăng ni bất luận đi theo bất cứ ý thức hệ giao tiếp nào, sa môn pháp phái nào.[24]
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không phải là một hiệp hội thế tục, do đó, không tự đặt mình dưới sự chỉ đạo của bất cứ quyền lực thế tục, không là công cụ bảo vệ sự tồn tại của bất cứ xu hướng chính trị, của bất cứ tổ chức thế tục nào; không hành đạo, hoằng đạo theo bất cứ định hướng ý thức hệ nào; duy chỉ một định hướng duy nhất: Thập phương Bạc-già-phạm nhất lộ Niết-bàn môn; một cứu cánh duy nhất là giải thoát.[26]
Trong một công bố do ông ký tên của GHPGVNTN, Viện Tăng thống, Văn thư Số 01/VTT/HDGPTW/TC.
Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc[27]. Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi[27].
Năm 1998, nhà cầm quyền áp lực buộc ông ký vào đơn "xin khoan hồng" ông đã tuyên bố.