Vĩnh Hưng
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Vĩnh Hưng | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh | Long An | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Vĩnh Hưng | ||
Trụ sở UBND | Đường 30/4, thị trấn Vĩnh Hưng | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 9 xã | ||
Thành lập | 30/3/1978[1] | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Trần Văn Cường | ||
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Tuấn Anh | ||
Bí thư Huyện ủy | Nguyễn Anh Việt | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 10°55′B 105°45′Đ / 10,91°B 105,75°Đ | |||
| |||
Diện tích | 384,52 km²[2] | ||
Dân số (2019) | |||
Tổng cộng | 50.074 người[2] | ||
Mật độ | 130 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 797[3] | ||
Biển số xe | 62-D1 | ||
Website | www | ||
Vĩnh Hưng là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.
Huyện Vĩnh Hưng nằm ở phía tây bắc của tỉnh Long An, thuộc vùng Đồng Tháp Mười. Vĩnh Hưng có tuyến biên giới giáp Campuchia dài 45,62 km (chiếm 31,1% tổng chiều dài biên giới của tỉnh Long An) được xem là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng.
Huyện Vĩnh Hưng nằm về phía tây bắc tỉnh Long An, có vị trí địa lý:
Dân số trung bình năm 2001 của huyện Vĩnh Hưng là 42.460 người, mật độ dân số 110 người/km²[2], bằng 37,41% mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km²). Dân số khu vực thành thị có 8.769 người (chiếm 20,65% dân số), dân số nông thôn 33.691 người (chiếm 79,34%). Tốc độ tăng dân số (95-01) là 5,15% năm, riêng năm 2001 là 1,8%, phần lớn là tăng cơ học, do quá trình điều động dân cư đến xây dựng vùng kinh tế mới. Nhân dân cần cù chịu khó lao động. Mật độ dân số bình quân 110 người/km². Do vậy, Vĩnh Hưng cần có phương án xây dựng cơ sở vật chất để phát triển nền kinh tế kết hợp cũng cố quốc phòng nâng cao đời sống nhân dân.
Tổng lao động toàn huyện năm 2001 là 22.114 người; trong đó, lao động nông - lâm nghiệp 17.916 người (chiếm 81%), lao động công nghiệp - TTCN 531 người (chiếm 2,4%) và lao động thương mại - dịch vụ 2.702 người (chiếm 12,2%), lao động khác 965 người chiếm 4,4%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu khu vực nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm.
Nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Hưng có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 713 người (chiếm 2,23% lao động xã hội); trong đó, trình độ đại học 69 người, cao đẳng 136 người, trung cấp 461 người, dưới trung cấp 47 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3% lao động thì tổng cộng số lao động được đào tạo là 5,3%, song lại chủ yếu tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế, đây là một tồn tại của huyện Vĩnh Hưng.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất (với chỉ tiêu là 10 - 25% số lao động được đào tạo).
Khí hậu huyện Vĩnh Hưng mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,2 °C, tháng 5 là tháng nóng nhất (29,3 °C), tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25 °C. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 4,3 °C và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8 °C đến 10 °C). Lượng mưa trung bình năm (1.447,7 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt, lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.332 mm (92% lượng mưa cả năm), bắt đầu ngày 20 tháng 5 và kết thúc đầu tháng 11 (164 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Vĩnh Hưng nằm ở đầu nguồn nước từ phía Campuchia và sông Tiền dẫn vào địa phận của tỉnh Long An. Đây chính là điểm thuận lợi so với các huyện khác như: Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Bến Lức,... của tỉnh Long An.
Chính nhờ có thủy lợi mà việc khai hoang, phục hóa, thâm canh sản xuất lúa, tăng vụ đạt kết quả cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt thì nguồn nước vẫn chưa đủ, vì vậy thủy lợi vẫn là vấn đề then chốt đối với Vĩnh Hưng, cần được đầu tư hoàn chỉnh tạo nền tảng cho sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.
Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Vĩnh Hưng là xuất hiện sâu, giá thành cao, nên ít được khai thác.
Hiện nay nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện hầu hết dùng nước mưa và nước sông rạch. Nước ngầm do giá thành khai thác cao nên mới có một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư.
Ngập lũ là quy luật thường niên của Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Hưng cũng là một trong số đó. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ lịch sử năm 2000 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho Vĩnh Hưng.
Như vậy, độ mặn trên kênh rạch Vĩnh Hưng có tăng; song vẫn nhỏ hơn 4g/l (ngưỡng chịu đựng của các loại cây trồng) nên ít ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Toàn huyện có 2 nhóm đất với 6 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó: nhóm đất xám có diện tích: 31.526 ha (chiếm 81,99% diện tích tự nhiên) và nhóm đất phèn: 5.980 ha (chiếm 15,55% diện tích tự nhiên). Như vậy, 100% diện tích đất thuộc loại đất có vấn đề, đây là một hạn chế của huyện Vĩnh Hưng. Tổng hợp diện tích các nhóm và loại đất ở huyện Vĩnh Hưng cò thể phân loại như sau:
Đất đai của huyện Vĩnh Hưng hình thành từ hai loại trầm tích: Trầm tích phù sa non trẻ (Holocene) và trầm tích phù sa cổ (Pleistocene); trong đó chủ yếu là trầm tích phù sa cổ (Pleistocene).
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Năm 1995, diện tích rừng có 3.035 ha, trong đó hầu hết là tràm cừ; đến năm 2001 diện tích rừng tăng lên 3.933 ha (tỷ lệ che phủ 11,47%) kể cả cây lâu năm và vườn tạp, phần lớn rừng trồng từ trước năm 1995 nên trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Qua điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản II, có nhận xét: Các thủy vực ở huyện Vĩnh Hưng có những nhóm loài đặc trưng như: tảo lục, tảo bánh xe, côn trùng thủy sinh, nhóm tôm cá nước ngọt. Thủy sinh vật có đến hơn 330 loài, gồm 180 loài tảo, 90 loài động vật nổi, 60 loài động vật đáy. Trên sông Vàm Cỏ Tây có hơn: 50 loài cá, 9 loài tôm; trong đó, cá đồng và tôm càng xanh có giá trị kinh tế nhưng sản lượng không lớn[2].
Ngoài ra, do môi trường nước nội đồng ngày càng được ngọt hóa, độ chua và thời gian ảnh hưởng chua phèn giảm, tạo điều kiện để các loài thủy sản về cư trú và phát triển, mở ra hướng đi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi.
Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Vĩnh Hưng, khoáng sản đặc trưng là sét gạch ngói nguồn gốc hỗn hợp sông - đầm lầy, sông - biển tuổi Holoxen. Mức độ điều tra, đánh giá về khoáng sản ở Vĩnh Hưng còn rất sơ lược, hầu như mới chỉ khảo sát mỏ sét gạch ngói với mức độ đánh giá về chất lượng mỏ sét: Cát (>0,1 mm) 9%, bột (0,1 - 0,01 mm) 21%, sét (<0,01 mm) 80%, chỉ số dẻo 24,4, độ co gió 7,5%, cường độ kháng nén (sau khi nung ở 950 °C): 121 kg/cm², quy mô vừa với cấp trữ lượng P = 4.657 triệu m³[2].
Với khoáng sản này, Vĩnh Hưng có thể phát triển mạnh công nghiệp sản xuất gạch ngói, phục vụ cho xây dựng trên địa bàn huyện, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Huyện Vĩnh Hưng có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vĩnh Hưng (huyện lỵ) và 9 xã: Hưng Điền A, Khánh Hưng, Thái Bình Trung, Thái Trị, Tuyên Bình, Tuyên Bình Tây, Vĩnh Bình, Vĩnh Trị, Vĩnh Thuận.
Trước 30 tháng 4 năm 1975, địa bàn huyện Vĩnh Hưng thuộc tỉnh Kiến Tường.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, đất Vĩnh Hưng thuộc huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.
Ngày 30 tháng 3 năm 1978, chia huyện Mộc Hóa thành hai huyện: Mộc Hóa và Vĩnh Hưng. Huyện Vĩnh Hưng bao gồm 10 xã: Hưng Điền A, Hưng Điền B, Thái Trị, Thái Bình Trung, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thạnh và Vĩnh Trị.[4]
Ngày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 74/HĐBT, tách 3.187 ha diện tích tự nhiên và 1.086 nhân khẩu của xã Thái Bình Trung và 976,60 ha diện tích tự nhiên và 1.480 nhân khẩu của xã Vĩnh Trị để thành lập xã Vĩnh Bình.[5]
Ngày 23 tháng 11 năm 1991, lập thị trấn Vĩnh Hưng từ xã Vĩnh Trị, lập xã Khánh Hưng từ xã Hưng Điền A và lập xã Hưng Thạnh từ 3 xã: Hưng Điền B, Vĩnh Thạnh và Vĩnh Châu B.
Ngày 31 tháng 8 năm 1992, lập xã Thạnh Hưng từ xã Vĩnh Thạnh và lập xã Hưng Hà từ 2 xã: Vĩnh Thạnh, Hưng Điền B.
Từ đó, huyện Vĩnh Hưng bao gồm thị trấn thị trấn Vĩnh Hưng và 15 xã: Khánh Hưng, Hưng Điền A, Vĩnh Trị, Thái Trị, Thái Bình Trung, Vĩnh Bình, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Đại, Hưng Điền B, Hưng Thạnh, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Thạnh Hưng, Hưng Hà.
Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27-CP[6], điều chỉnh địa giới hành chánh huyện như sau:
Sau khi điều chỉnh, huyện Vĩnh Hưng còn lại 38.238 ha diện tích tự nhiên với 31.924 nhân khẩu, bao gồm 9 xã: Khánh Hưng, Hưng Điền A, Vĩnh Trị, Thái Trị, Thái Bình Trung, Vĩnh Bình, Vĩnh Thuận, Tuyên Bình, Tuyên Bình Tây và thị trấn Vĩnh Hưng.
Vĩnh Hưng nằm trong vùng Đồng Tháp Mười. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp - lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hoá. Huyện giáp Campuchia (có đường biên giới dài 45,62 km), có cửa khẩu Long Khốt (Thái Bình Trung) và Bình Tứ (Hưng Điền A) nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại qua biên giới (kinh tế cửa khẩu)[1].
Xét về vị trí địa lý kết hợp với kiến tạo địa chất trầm tích và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Vĩnh Hưng[2]:
Có tỉnh lộ 831 nối với quốc lộ 62 đi các tỉnh. Hệ thống giao thông từ huyện đến trung tâm các xã phát triển mạnh, hiện nay đã có 10/10 xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm. Ngoài ra hệ thống kênh rạch chằng chịt gồm có sông Vàm Cỏ Tây, Sông Long Khốt, Sông Lò Gạch, Tuyến kênh 28, kênh Tân Thành Lò Gạch, kênh Trung Ương, Kênh Hưng Điền… thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá và giao lưu với các vùng, diện tích sản xuất đất nông nghiệp 33.780,82 ha, thuận lợi cho trồng lúa và tràm.
Vĩnh Hưng có đường biên giới giáp với Campuchia dài 45,62 km thuận lợi cho việc phát triển thương mại với 3 cửa khẩu: Long Khốt xã Thái Bình Trung, Vàm Đồn xã Hưng Điền A và Cả Trốt xã Khánh Hưng.[7]
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên MS1