Vương Nghị | |
---|---|
王毅 | |
Vương Nghị năm 2024 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 25 tháng 7 năm 2023 – nay 1 năm, 119 ngày |
Tiền nhiệm | Tần Cương |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Ủy viên Bộ Chính trị | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 10 năm 2022 – nay 2 năm, 29 ngày |
Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Công tác Ngoại sự Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 30 tháng 12 năm 2022 – nay 1 năm, 327 ngày |
Tiền nhiệm | Dương Khiết Trì |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao | |
Nhiệm kỳ | 16 tháng 3 năm 2013 – 30 tháng 12 năm 2022 9 năm, 289 ngày |
Tiền nhiệm | Dương Khiết Trì |
Kế nhiệm | Tần Cương |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 6 năm 2008 – 16 tháng 3 năm 2013 4 năm, 288 ngày |
Tiền nhiệm | Trần Vân Lâm |
Kế nhiệm | Trương Chí Quân |
Đại sứ Trung Quốc tại Nhật Bản | |
Nhiệm kỳ | 26 tháng 9 năm 2004 – 24 tháng 9 năm 2007 2 năm, 363 ngày |
Tiền nhiệm | Vũ Đại Vĩ |
Kế nhiệm | Thôi Thiên Khải |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 8 tháng 10, 1953 Bắc Kinh, Trung Quốc |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Trung Quốc |
Alma mater | Học viện Ngoại ngữ số 2 Bắc Kinh Học viện Ngoại giao Trung Quốc Đại học Georgetown |
Vương Nghị (tiếng Trung: 王毅; bính âm: Wáng Yì; sinh ngày 8 tháng 10 năm 1953) là chính trị gia, nhà ngoại giao hàng đầu người Trung Quốc. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIX, khóa XVIII, khóa XVII, hiện là Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Công tác Ngoại sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Ông từng giữ chức Phó Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Đại sứ Trung Quốc tại Nhật Bản; và Chủ nhiệm Văn phòng các vấn đề Đài Loan thuộc Quốc vụ viện. Vương Nghị là chuyên gia đàm phán về vấn đề hạt nhân Triều Tiên.[1]
Vương Nghị sinh năm 1953 tại Bắc Kinh. Tháng 9 năm 1969, sau khi tốt nghiệp trung học, ông được cử đến Đông Bắc Trung Quốc, phục vụ Binh đoàn xây dựng và sản xuất Hắc Long Giang trong tám năm.
Tháng 12 năm 1977, Vương Nghị trở lại Bắc Kinh và cùng năm đó ghi danh vào khoa Ngôn ngữ châu Á và châu Phi của Học viện Ngoại ngữ số 2 Bắc Kinh (viết tắt theo tiếng Anh là BISU). Ông học chuyên ngành tiếng Nhật tại Học viện Ngoại ngữ số 2 Bắc Kinh, tốt nghiệp vào tháng 2 năm 1982 với bằng cử nhân. Vương Nghị nói lưu loát tiếng Anh và tiếng Nhật.[2]
Sau khi tốt nghiệp đại học, Vương Nghị được cử đến Vụ châu Á, Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nơi ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách là nhà ngoại giao. Tháng 9 năm 1989, ông được cử đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Nhật Bản và phục vụ ở đó trong năm năm. Khi trở về Trung Quốc vào tháng 3 năm 1994, Vương Nghị được bổ nhiệm làm Phó Vụ trưởng Vụ châu Á, Bộ Ngoại giao và được thăng chức Vụ trưởng Vụ châu Á vào năm sau. Từ tháng 8 năm 1997 đến tháng 2 năm 1998, Vương Nghị là học giả thỉnh giảng tại Viện Quan hệ Đối ngoại của Đại học Georgetown ở Hoa Kỳ. Ngay sau khi trở về Trung Quốc, ông được bổ nhiệm giữ chức Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm giám đốc văn phòng nghiên cứu chính sách. Từ tháng 9 năm 1999, Vương Nghị học quan hệ quốc tế tại Học viện Ngoại giao Trung Quốc và lấy bằng tiến sĩ. Tháng 2 năm 2001, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc, phụ trách các vấn đề châu Á. Ông là thứ trưởng trẻ nhất.
Tháng 9 năm 2004, Vương Nghị được bổ nhiệm làm Đại sứ Trung Quốc tại Nhật Bản và đảm nhiệm vai trò đại sứ tại Nhật Bản đến tháng 9 năm 2007. Tháng 6 năm 2008, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Văn phòng các vấn đề Đài Loan của Quốc vụ viện, thay thế Trần Vân Lâm.[3]
Ngày 16 tháng 3 năm 2013, Vương Nghị được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao sau khi được Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn.[4]
Tháng 3 năm 2018, ông được bầu kiêm nhiệm chức danh Ủy viên Quốc vụ.[5]
Ông là Ủy viên Trung ương Đảng Đảng Cộng sản Trung Quốc các khóa 17 (2007–2012), 18 (2012–2017), 19 (2017–2022).
Vợ của Vương Nghị là Tiền Vi, con gái của Tiền Gia Đông, người từng là thư ký của Thủ tướng Chu Ân Lai. Vương Nghị có một người con gái.[6]