Tên | AS-204, Apollo 1 |
---|---|
Dạng nhiệm vụ | Chuyến bay thử nghiệm tàu vũ trụ có người lái |
Nhà đầu tư | NASA |
Thời gian nhiệm vụ | Lên đến 14 ngày (dự kiến) |
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |
Thiết bị vũ trụ | CSM-012 |
Dạng thiết bị vũ trụ | Mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo, Block I |
Nhà sản xuất | North American Aviation |
Khối lượng phóng | 20.000 kilôgam (45.000 lb) |
Phi hành đoàn | |
Số lượng phi hành đoàn | 3 |
Thành viên | |
Bắt đầu nhiệm vụ | |
Ngày phóng | 21 tháng 2 năm 1967 (dự kiến) |
Tên lửa | Saturn IB AS-204 |
Địa điểm phóng | Mũi Kennedy, LC-34 |
Kết thúc nhiệm vụ | |
Phá hủy |
|
Các tham số quỹ đạo | |
Hệ quy chiếu | Địa tâm |
Chế độ | Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp |
Cận điểm | 220 kilômét (120 nmi) (dự kiến) |
Viễn điểm | 300 kilômét (160 nmi) (dự kiến) |
Độ nghiêng | 31 độ (dự kiến) |
Chu kỳ | 89,7 phút (dự kiến) |
Từ trái sang phải: White, Grissom, Chaffee |
Apollo 1, ban đầu được chỉ định là AS-204, theo kế hoạch là sứ mệnh có người lái đầu tiên của chương trình Apollo,[1] một nỗ lực nhằm trở thành quốc gia đầu tiên đưa người đổ bộ lên Mặt Trăng của Hoa Kỳ. Nhiệm vụ được lên kế hoạch phóng vào ngày 21 tháng 2 năm 1967 như cuộc thử nghiệm đầu tiên ở quỹ đạo Trái Đất tầm thấp của mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo. Tuy nhiên, sứ mệnh này chưa bao giờ được bay; một vụ cháy cabin trong quá trình kiểm tra diễn tập cho phi vụ phóng tại Tổ hợp phóng 34 của Trạm Không quân Mũi Kennedy vào ngày 27 tháng 1 đã giết chết toàn bộ ba thành viên phi hành đoàn, bao gồm phi công chỉ huy Gus Grissom, phi công cao cấp Ed White, và phi công Roger B. Chaffee. Ngoài ra, vụ hỏa hoạn còn phá hủy mô-đun chỉ huy (CM). Tên gọi Apollo 1, vốn do đội bay chọn, đã được NASA chính thức hóa sau vụ hỏa hoạn để vinh danh các phi hành gia thiệt mạng.
Ngay sau trận hỏa hoạn, NASA đã cho thành lập Accident Review Board (tạm dịch là "Ban Điều tra Tai nạn") nhằm xác định nguyên nhân gây cháy, và cả hai viện của Quốc hội Hoa Kỳ cũng chỉ đạo các ủy ban thẩm tra của riêng họ để giám sát cuộc điều tra của NASA. Nguồn cháy được xác định là do chập điện, và ngọn lửa đã lan ra nhanh chóng do vật liệu nylon dễ cháy và môi trường oxy tinh khiết áp suất cao trong cabin. Nỗ lực giải cứu đã bị ngăn chặn do cửa sập của plug door không thể mở được trước áp suất bên trong của cabin. Vì tên lửa không có nhiên liệu nên cuộc thử nghiệm không được coi là nguy hiểm, do đó công tác chuẩn bị tình huống khẩn cấp cho nó là rất kém.
Trong quá trình điều tra của Quốc hội, Thượng nghị sĩ Walter Mondale đã công khai tiết lộ một tài liệu nội bộ của NASA trích dẫn các vấn đề với nhà thầu chính của Apollo là North American Aviation, về sau được biết đến với tên gọi Phillips Report. Việc tiết lộ này khiến Trưởng quản lý NASA James E. Webb xấu hổ, ông không hề hay biết gì về sự tồn tại của tài liệu, và đã gây ra nhiều tranh cãi đối với chương trình Apollo. Bất chấp sự không hài lòng của Quốc hội trước thái độ thiếu cởi mở của NASA, cả hai ủy ban quốc hội đều phán quyết rằng các vấn đề được nêu trong báo cáo không liên quan đến vụ tai nạn.
Nhũng chuyến bay Apollo có người lái đã bị đình chỉ hai mươi tháng trong khi các phần cứng của mô-đun chỉ huy được xử lý. Tuy nhiên, công tác phát triển cũng như các chuyến bay thử không người lái của mô-đun Mặt Trăng (LM) và tên lửa Saturn V vẫn được tiếp tục. Phương tiện phóng Saturn IB của Apollo 1, AS-204, đã được sử dụng trong chuyến bay thử đầu tiên của LM là Apollo 5. Về sau, sứ mệnh Apollo có người lái đầu tiên đã được thực hiện thành công với phi hành đoàn dự phòng của Apollo 1 trong nhiệm vụ Apollo 7 vào tháng 10 năm 1968.
Vai trò | Phi hành gia | |
---|---|---|
Phi công chỉ huy | Gus Grissom Chuyến bay thứ ba (lẽ ra) | |
Phi công cao cấp | Edward H. White II Chuyến bay thứ hai (lẽ ra) | |
Phi công | Roger B. Chaffee Chuyến bay thứ nhất (lẽ ra) | |
[2] |
Vai trò | Phi hành gia | |
---|---|---|
Phi công chỉ huy | James A. McDivitt | |
Phi công cao cấp | David R. Scott | |
Phi công | Russell L. "Rusty" Schweickart | |
Phi hành đoàn này đã bay trên Apollo 9.[2] |
Vai trò | Phi hành gia | |
---|---|---|
Phi công chỉ huy | Walter M. "Wally" Schirra Jr. | |
Phi công cao cấp | Donn F. Eisele | |
Phi công | R. Walter Cunningham | |
Phi hành đoàn này đã bay trên Apollo 7. |
AS-204 là chuyến bay thử nghiệm có người lái đầu tiên của mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo (CSM) lên quỹ đạo Trái Đất, với phương tiện phóng là một tên lửa đẩy Saturn IB. Mục tiêu của phi vụ là nhằm thử nghiệm các hoạt động phóng, các cơ sở theo dõi và điều khiển trên mặt đất cũng như hiệu suất của tổ hợp phóng Apollo-Saturn và có thể kéo dài tới hai tuần, tùy thuộc vào hoạt động của tàu vũ trụ.[3]
CSM cho chuyến bay này mang số hiệu 012, do North American Aviation (NAA) chế tạo, là một phiên bản Block I được thiết kế trước khi chiến lược điểm hẹn quỹ đạo Mặt Trăng được lựa chọn; do đó nó thiếu đi khả năng ghép nối với mô-đun Mặt Trăng. Điều này đã được đưa vào trong thiết kế của CSM Block II, cùng với các bài học rút ra từ Block I. Block II sẽ được bay thử nghiệm với LM một khi LM sẵn sàng.[4]
Giám đốc Điều hành Phi hành đoàn Deke Slayton đã chọn ra phi đội Apollo đầu tiên vào tháng 1 năm 1966, với Grissom làm phi công chỉ huy, White là phi công cao cấp, và tân binh Donn F. Eisele đảm nhiệm vị trí phi công. Nhưng Eisele đã bị trật khớp vai hai lần trên máy bay huấn luyện không trọng lượng KC-135 và phải phẫu thuật vào ngày 27 tháng 1. Slayton thay thế ông bằng Chaffee,[5] và NASA đã thông báo kết quả lựa chọn phi đội vào ngày 21 tháng 3 năm 1966. James McDivitt, David Scott và Russell Schweickart là những cái tên được chọn vào phi hành đoàn dự phòng.[6]
Ngày 29 tháng 9, Walter Schirra, Eisele, và Walter Cunningham được chọn vào phi hành đoàn chính cho chuyến bay thử nghiệm thứ hai của CSM Block I, AS-205.[7] NASA dự định tiếp nối phi vụ này với một chuyến bay thử không người lái của LM (AS-206), sau đó sứ mệnh có người lái thứ ba sẽ là chuyến bay kép được định danh AS-278 (hoặc AS-207/208), trong đó AS-207 sẽ phóng lên CSM Block II đầu tiên có phi hành đoàn, sau đó thực hiện một cuộc gặp gỡ và cập bến với chiếc LM không có người lái được phóng trên AS-208.[8]
Tháng 3 năm 1966, NASA nghiên cứu về khả năng thực hiện sứ mệnh Apollo đầu tiên như một cuộc hẹn chung trong không gian với sứ mệnh cuối cùng thuộc Dự án Gemini là Gemini 12 vào tháng 11 cùng năm.[9] Tuy nhiên, vào tháng 5, sự chậm trễ trong việc giúp Apollo sẵn sàng bay và thời gian cần thêm để kết hợp khả năng tương thích với Gemini đã khiến ý tưởng ấy trở nên không thực tế.[10] Điều này đã trở thành vấn đề đem ra bàn luận khi việc không chuẩn bị kịp thời cho trạng thái sẵn sàng của tàu vũ trụ AS-204 đã khiến thời hạn mục tiêu vào quý 4 năm 1966 bị bỏ lỡ, và sứ mệnh phải dời lại sang ngày 21 tháng 2 năm 1967.[11]