Eurovision Song Contest 2020

Eurovision Song Contest 2020
Open Up
Thời gian
Bán kết 112 tháng 5 năm 2020 (đã hủy)
Bán kết 214 tháng 5 năm 2020 (đã hủy)
Chung kết16 tháng 5 năm 2020 (đã hủy)
Tổ chức
Địa điểmRotterdam Ahoy, Rotterdam, Hà Lan
Dẫn chương trình
Đạo diễn
  • Marnix Kaart
  • Marc Pos
  • Daniel Jelinek
Giám sátJon Ola Sand
Sản xuất
  • Sietse Bakker
  • Inge van de Weerd
Đài tổ chức
Trang web chính thứceurovision.tv/event/rotterdam-2020 Sửa dữ liệu tại Wikidata
Tham gia
Số quốc gia41 (dự kiến)
2019 ← Eurovision Song Contest → 2021

Eurovision Song Contest 2020 theo dự kiến ban đầu là Cuộc thi Ca khúc truyền hình châu Âu thứ 65. Theo kế hoạch, cuộc thi sẽ diễn ra ở nhà thi đấu Rotterdam Ahoy tại thành phố Rotterdam, Hà Lan, sau chiến thẳng của Duncan Laurence vào năm 2019 với ca khúc "Arcade". Hai vòng bán kết dự kiến được tổ chức vào ngày 12 tháng 5 và 14 tháng 5, và đêm chung kết vào ngày 16 tháng 5 năm 2020.

Vào ngày 18 tháng 3 năm 2020, Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU) đã ra quyết định huỷ bỏ cuộc thi do đại dịch COVID-19 tại châu Âu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử 64 năm tổ chức của Eurovision, một cuộc thi phải bị hủy.[1]

Địa điểm diễn ra cuộc thi

[sửa | sửa mã nguồn]
Rotterdam Ahoy, nơi tổ chức cuộc thi Ca khúc truyền hình Châu Âu năm 2020.

Cuộc thi Ca khúc truyền hình Châu Âu năm 2020 dự kiến được tổ chức tại nhà thi đấu Rotterdam Ahoy ở Rotterdam, Hà Lan. Rotterdam Ahoy trước đây đã tổ chức Cuộc thi Ca khúc Eurovision dành cho thiếu nhi (Junior Eurovision Song Contest) năm 2007.[2] Nhà thi đấu có sức chứa lên đến 16,424 chỗ ngồi với chiều cao 30m.

Format cuộc thi

[sửa | sửa mã nguồn]

Logo và khẩu hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Khẩu hiệu của cuộc thi, "Open Up", đã được ra mắt chính thức vào ngày 24 tháng 10 năm 2019.[3] Logo và thương hiệu chính thức được công bố vào ngày 28 tháng 11 năm 2019 và được thiết kế bởi CLEVER ° FRANKE [4]

Thiết kế sân khấu

[sửa | sửa mã nguồn]

EBU đã tiết lộ thiết kế sân khấu cho Cuộc thi Ca khúc Eurovision 2020 vào tháng 12 năm 2019. Thiết kế được lấy cảm hứng từ khẩu hiệu "Open Up" và phong cảnh phẳng điển hình của Hà Lan. Sân khấu Eurovision được thiết kế bởi nhà thiết kế sân khấu người Đức, Florian Wieder, người cũng đã thiết kế sân khấu cho các cuộc thi cho các năm 2011,2012,2015 2017, và 2019. Không giống như cuộc thi trước, phòng xanh được đặt ngay bên trong khán đài biểu diễn của sân khấu chính.[5]

Dẫn chương trình

[sửa | sửa mã nguồn]
Chantal Janzen, Jan Smit và Edsilia Rombley, dự kiến sẽ là những người dẫn chương trình của Cuộc thi Ca khúc truyền hình châu Âu 2020

Cuộc thi dự kiến được dẫn bởi 3 người dẫn chương trình bao gồm: nữ diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình Chantal Janzen, ca sĩ và bình luận viên cho Jan Smit, và ca sĩ Edsilia Rombley, thí sinh đại diện cho Hà Lan tham gia các cuộc thi vào các năm 19982007.[6][7] Beauty vlogger Nikkie de Jager (NikkieTutorials) sẽ là người dẫn chương trình trên online của cuộc thi, bao gồm rất nhiều cảnh quay phía hậu trường được ghi lại với các nghệ sĩ tham gia của cuộc thi và sẽ được phát trên YouTube.[8] Cô cũng dự kiến sẽ là người dẫn chương trình trong lễ khai mạc và dự kiến sẽ xuất hiện trong cả ba chương trình trực tiếp vào ngày 12, 14 và 16 tháng 5 năm 2020.[9] Roos MoggréAndrew Makkinga sẽ tổ trì các cuộc họp báo của cuộc thi.[10]

Bốc thăm chia các đêm thi bán kết

[sửa | sửa mã nguồn]

35 quốc gia tham dự vòng bán kết sẽ được phân chia vào 5 nhóm bốc thăm, dựa vào những lần bầu chọn trước đó trong lịch sử. Bốc thăm ở các nhóm khác nhau nhằm giảm thiểu sự thiên vị hay thù ghét của 1 quốc gia này với quốc gia khác trong việc bỏ phiếu (như SípHy Lạp, các nước Bắc Âu, NgaUkraina, ArmeniaAzerbaijan) từ đó tăng tính công bằng cho cuộc thi. Lần bốc thăm này cũng sẽ phân chia đều 6 quốc gia đã được mặc định vào chung kết (Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và chủ nhà Hà Lan) vào 2 thi bán kết để bầu chọn cho các quốc gia tham gia.

Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5

Cách thức bầu chọn

[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi quốc gia sẽ bầu chọn cho phần thi của các quốc gia khác theo thang điểm 12, 10, 8-1 theo thứ tự 10 phần thi tốt nhất. Khán giả của quốc gia chiếm 50% phiếu bầu và hội đồng giám khảo chuyên môn của quốc gia đó chiếm 50% phiếu bầu còn lại. Những người tham gia bầu chọn không được bỏ phiếu cho chính quốc gia của mình.

Khán giả có thể bầu chọn qua 3 cách: nhắn tin SMS, gọi điện thoại đến tổng đài địa phương hay bầu chọn trực tiếp trên app Eurovision Song Contest. Mỗi khán giả có tối đa 20 phiếu bầu.

Các quốc gia tham dự

[sửa | sửa mã nguồn]

Bán kết 1

[sửa | sửa mã nguồn]

Đêm bán kết đầu tiên dự kiến diễn ra vào ngày 12 tháng 5 năm 2020 lúc 21:00 (CEST). Mười bảy quốc gia đã được bốc thăm để tham dự đêm bán kết đầu tiên. Các quốc gia này, cộng với Đức, Ý và nước chủ nhà Hà Lan sẽ tham gia bầu chọn trong đêm bán kết này.[11]

Thứ tự Quốc gia Nghệ sĩ Ca khúc Ngôn ngữ
01  Thụy Điển The Mamas "Move" Tiếng Anh
02  Belarus VAL "Da vidna" (Да відна) Tiếng Belarus
03  Úc Montaigne "Don't Break Me" Tiếng Anh
04  Bắc Macedonia Vasil "You" Tiếng Anh
05  Slovenia Ana Soklič "Voda" Tiếng Slovene
06  Litva The Roop "On Fire" Tiếng Anh
07  Ireland Lesley Roy "Story of My Life" Tiếng Anh
08  Nga Little Big "Uno" Tiếng Anh, Tiếng Tây Ban Nha
09  Bỉ Hooverphonic "Release Me" Tiếng Anh
10  Malta Destiny "All of My Love" Tiếng Anh
11  Croatia Damir Kedžo "Divlji vjetre" Tiếng Croatia
12  Azerbaijan Efendi "Cleopatra" Tiếng Anh, Tiếng Nhật
13  Síp Sandro "Running" Tiếng Anh
14  Na Uy Ulrikke "Attention" Tiếng Anh
15  Israel Eden Alene "Feker libi" (ፍቅር ልቤ) Tiếng Anh, Tiếng Amhara, Tiếng Do Thái, Tiếng Ả Rập
16  România Roxen "Alcohol You" Tiếng Anh
17  Ukraina Go_A "Solovey" (Соловей) Tiếng Ukraina

Bán kết 2

[sửa | sửa mã nguồn]
Thứ tự Quốc gia Nghệ sĩ Ca khúc Ngôn ngữ
01  Hy Lạp Stefania "Supergirl" Tiếng Anh
02  Estonia Uku Suviste "What Love Is" Tiếng Anh
03  Áo Vincent Bueno "Alive" Tiếng Anh
04  Moldova Natalia Gordienko "Prison" Tiếng Anh
05  San Marino Senhit "Freaky!" Tiếng Anh
06  Cộng hòa Séc Benny Cristo "Kemama" Tiếng Anh
07  Serbia Hurricane "Hasta la vista" Tiếng Serbia
08  Ba Lan Alicja "Empires" Tiếng Anh
09  Iceland Daði og Gagnamagnið "Think About Things" Tiếng Anh
10  Thụy Sĩ Gjon's Tears "Répondez-moi" Tiếng Pháp
11  Đan Mạch Ben & Tan "Yes" Tiếng Anh
12  Albania Arilena Ara "Fall from the Sky" Tiếng Anh
13  Phần Lan Aksel "Looking Back" Tiếng Anh
14  Armenia Athena Manoukian "Chains on You" Tiếng Anh
15  Bồ Đào Nha Elisa "Medo de sentir" Tiếng Bồ Đào Nha
16  Gruzia Tornike Kipiani "Take Me as I Am" Tiếng Anh
17  Bulgaria Victoria "Tears Getting Sober" Tiếng Anh
18  Latvia Samanta Tīna "Still Breathing" Tiếng Anh

Chung kết

[sửa | sửa mã nguồn]

Đêm chung kết dự kiến diễn ra vào ngày 16 tháng 5 năm 2020 lúc 21:00 (CEST). Hai mươi sáu quốc gia dự kiến sẽ tham gia trận chung kết, bao gồm nước chủ nhà Hà Lan, Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và mười quốc gia có thành tích tốt nhất của mỗi đêm bán kết. Tất cả 41 quốc gia tham gia cuộc thi sẽ tham gia bầu chọn trong trận chung kết.

Thứ tự[12] Quốc gia Nghệ sĩ Bài hát Ngôn ngữ
23  Hà Lan Jeangu Macrooy "Grow" Tiếng Anh
 Pháp Tom Leeb "Mon alliée (The Best in Me)" Tiếng Anh, Tiếng Pháp
 Đức Ben Dolic "Violent Thing" Tiếng Anh
 Ý Diodato "Fai rumore" Tiếng Ý
 Tây Ban Nha Blas Cantó "Universo" Tiếng Tây Ban Nha
 Anh Quốc James Newman "My Last Breath" Tiếng Anh

Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại châu Âu dẫn đến huỷ bỏ cuộc thi

[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt đầu từ cuối tháng 2 năm 2020, sự lây lan của dịch COVID-19 từ Trung Quốc sang các nước trên toàn thế giới đã gây lo ngại đối với việc tổ chức cuộc thi ca khúc Eurovision.[13] Vào ngày 6 tháng 3, đài truyền hình Hà Lan NPO tuyên bố "ban tổ chức cuộc thi sẽ làm theo lời khuyên của các cơ quan y tế trong việc quyết định hình thức tổ chức cuộc thi, dự kiến diễn ra vào ngày 12 tháng 5 đến 16 tháng 5." [14] Vào tháng 3, các nhà chức trách ở Đan Mạch đã ra lệnh hủy bỏ các sự kiện với hơn 1.000 khán giả để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Điều này dẫn đến việc vòng loại quốc gia Đan Mạch cho Eurovision, Dansk Melodi Grand Prix, được tổ chức mà không có khán giả xem ghi hình.[15] Đại diện từ các nước Thụy Điển, Phần Lan, Israel, Thụy Sĩ, ÝHy Lạp đã tham dự cuộc họp trưởng đoàn vào ngày 9 tháng 3 thông qua hình thức từ xa.[16] Tổng giám sát viên của cuộc thi, Jon Ola Sand, cũng đã tham dự cuộc họp từ xa, sau khi EBU áp đặt lệnh hạn chế đi lại cho tất cả các nhân viên cho đến ngày 13 tháng 3 sau khi một nhân viên bị phát hiện dương tính với COVID-19.[17][18]

Vào ngày 13 tháng 3, các nhà tổ chức của bữa tiệc trình diễn âm nhạc trước cuộc thi vào ngày 10 và 11 tháng 4 tại Madrid, PrePartyES, thông báo hoãn lại sự kiện do các mối đe dọa của dịch COVID-19 tại Tây Ban Nha cho đến khi có thông báo mới.[19] Cùng ngày, ban tổ chức Israel Calling, một bữa tiệc được lên kế hoạch trước ở Tel Aviv, tuyên bố rằng sự kiện cũng sẽ bị hủy bỏ.[20] Vào ngày 16 tháng 3, những người tổ chức Eurovision in Concert, một bữa tiệc trình diễn âm nhạc thường niên được ở Amsterdam, đã thông báo rằng sự kiện cũng sẽ bị hủy bỏ.[21][22]

Cuối cùng EBU đã quyết định rằng chính cuộc thi sẽ bị hủy do đại dịch, được công bố vào ngày 18 tháng 3 năm 2020. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2020, ban tổ chức của cuộc thi đã thông báo rằng tất cả các ca khúc dự thi vào năm 2020 sẽ không thể dự thi vào năm 2021 và tất cả các ca khúc tham dự cuộc thi năm này sẽ được tri ân bằng một chương trình đặc biết mang tên Eurovision: Europe Shine a Light, và sẽ được công chiếu vào ngày 16 tháng 5 năm 2020 để thay thế cho đêm chung kết đã bị huỷ trước đó.[23]

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc thi Ca khúc truyền hình Châu Âu năm 2020 theo dự kiến sẽ là sự hợp tác giữa ba đài truyền hình Hà Lan là AVROTROS, Nederlandse Omroep Stichting (NOS) và Nederlandse Publieke Omroep (NPO) và mỗi nhà đài sẽ đảm nhận một vai trò khác nhau.[24] Sietse Bakker và Inge van de Weerd sẽ là nhà sản xuất điều hành, trong khi Emilie Sickinghe và Jessica Stam sẽ giữ vai trò phó giám đốc sản xuất.[25] Vào tháng 8 năm 2019, Marnix Kaart và Marc Pos đã được công bố là đạo diễn của 3 đêm thi,[26] cũng như Gerben Bakker là người đứng đầu cuộc thi.[27] Cornald Maas sẽ là cố vấn sáng tạo.[28] Jon Ola Sand, tổng giám sát viên của cuộc thi, sẽ giữ vai trò như ông đã làm từ năm 2011, đây dự kiến sẽ là năm cuối cùng ông đảm nhận chức vụ này trước khi chuyển giao cho Martin Österdahl.[29]

Album chính thức

[sửa | sửa mã nguồn]

Eurovision Song Contest: Rotterdam 2020album tổng hợp chính thức cho cuộc thi, bao gồm tất cả 41 bài hát dự kiến tham gia cuộc thi. Album theo kế hoạch ban đầu sẽ được Universal Music Group phát hành vào ngày 17 tháng 4 năm 2020, nhưng đã bị lùi lại đến ngày 15 tháng 5 năm 2020.[30]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Official EBU statement & FAQ on Eurovision 2020 cancellation”. Eurovision.tv (bằng tiếng Anh). Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU). 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2023.
  2. ^ van Lith, Nick (ngày 30 tháng 8 năm 2019). “Rotterdam to host the Eurovision Song Contest 2020!”. ESCXtra. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  3. ^ 'Open Up' to Eurovision 2020”. Eurovision.tv. European Broadcasting Union. ngày 24 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2019.
  4. ^ “Rotterdam 2020 design celebrates 65 years of Eurovision Song Contest”. Eurovision.tv. European Broadcasting Union. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  5. ^ Rasmus (ngày 2 tháng 12 năm 2019). “Eurovision 2020: Stage design revealed for Rotterdam”. Eurovisionworld. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2019.
  6. ^ “Exclusive: Introducing the Eurovision 2020 presenters!”. European Broadcasting Union. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2019.
  7. ^ “Edsilia Rombley, Chantal Janzen en Jan Smit presenteren Songfestival”. nos.nl. ngày 4 tháng 12 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2019.
  8. ^ “NikkieTutorials online-presentator Songfestival: 'Extreem vereerd'. NOS (bằng tiếng Hà Lan). ngày 10 tháng 2 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020.
  9. ^ “NikkieTutorials online presenter of Eurovision 2020”. Eurovision.tv. ngày 10 tháng 2 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020.
  10. ^ “Moggré en Makkinga leiden 87 persconferenties songfestival” [Moggré and Makkinga will host Eurovision's 87 press conferences]. Algemeen Dagblad (bằng tiếng Hà Lan). ngày 24 tháng 2 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2020.
  11. ^ Groot, Evert (ngày 28 tháng 1 năm 2020). “Which country performs in which Eurovision 2020 Semi-Final”. eurovision.tv. European Broadcasting Union. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2020.
  12. ^ “Eurovision Song Contest 2020 Grand Final”. Eurovision.tv. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2020.
  13. ^ Adams, William Lee (ngày 26 tháng 2 năm 2020). “Could Eurovision 2020 be cancelled because of coronavirus? NPO responds to virologist's comments”. Wiwibloggs (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  14. ^ Deutsch, Anthony; Meijer, Bart (ngày 6 tháng 3 năm 2020). Heinrich, Mark (biên tập). “Eurovision Song Contest reconsidering Dutch event over coronavirus”. Reuters (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  15. ^ Mortensen, Andreas; Gronholt-Pedersen, Jacob (ngày 6 tháng 3 năm 2020). Chopra, Toby (biên tập). “Denmark to hold Eurovision selection party in empty arena due to coronavirus fears”. Reuters (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  16. ^ Kourouvanis, Fotis (ngày 10 tháng 3 năm 2020). “Eurovision 2020: Heads of Delegations meeting is over”. Eurovision News | Music | Fun (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  17. ^ Quinn, Angus (ngày 3 tháng 3 năm 2020). “Jon Ola Sand to miss Eurovision HoD Meet due to coronavirus travel ban”. Wiwibloggs (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  18. ^ Cantor-Navas, Judy (ngày 6 tháng 3 năm 2020). “Coronavirus Casts a Shadow on 2020 Eurovision Contest”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  19. ^ Cobb, Ryan. “Eurovision-Spain postpones Madrid pre-party”. EscXtra. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2020.
  20. ^ Granger, Anthony. “Israel: Israel Calling cancelled due to coronavirus”. EuroVoix. EuroVoix. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2020.
  21. ^ EurovisionInConcert (15 tháng 3 năm 2020). “Statement regarding Eurovision in Concert 2020 #eurovisioninconcert #EiC2020 #eurovision #songfestivalpic.twitter.com/HOLaQ37nYB”. @ESCinConcert (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2020.
  22. ^ eurovisiontj (16 tháng 3 năm 2020). “🇳🇱 UPDATED: Eurovision in Concert & Amsterdam Calling is canceled”. ESCXTRA.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2020.
  23. ^ “Official EBU statement & FAQ on Eurovision 2020 cancellation | Eurovision Song Contest”. eurovision.tv (bằng tiếng Anh). 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2023.
  24. ^ “NPO, AVROTROS and NOS to organize 2020 Eurovision Song Contest”. Nederlandse Publieke Omroep. ngày 19 tháng 5 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2019.
  25. ^ Bird, Lisa (ngày 5 tháng 7 năm 2019). “Four Core Team members for Eurovision 2020 announced”. ESCXtra. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2019.
  26. ^ LaFleur, Louise (ngày 27 tháng 8 năm 2019). “The directors of the Eurovision Song Contest 2020 have been revealed”. Eurovision.tv. European Broadcasting Union. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2019.
  27. ^ LaFleur, Louise (ngày 28 tháng 8 năm 2019). “The Eurovision 2020 Host City countdown is on”. Eurovision.tv. European Broadcasting Union. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2019.
  28. ^ Granger, Anthony (ngày 31 tháng 8 năm 2019). “Eurovision'20: Cornald Maas Named Creative Advisor”. Eurovoix. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2019.
  29. ^ “Jon Ola Sand to step down as Executive Supervisor after Rotterdam 2020”. Eurovision.tv. European Broadcasting Union. ngày 30 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  30. ^ “The Official Eurovision Song Contest 2020 CD album with 41 songs to be released 8 May”. wiwibloggs.com (bằng tiếng Anh). 28 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tất tần tật về Kazuha - Genshin Impact
Tất tần tật về Kazuha - Genshin Impact
Tất tần tật về Kazuha và những gì cần biết trước khi roll Kazuha
Cẩm nang đi du lịch Đài Loan trong 5 ngày 4 đêm siêu hấp dẫn
Cẩm nang đi du lịch Đài Loan trong 5 ngày 4 đêm siêu hấp dẫn
Đài Loan luôn là một trong những điểm đến hot nhất khu vực Đông Á. Nhờ vào cảnh quan tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa, cơ sở hạ tầng hiện đại, tiềm lực tài chính ổn định, nền ẩm thực đa dạng phong phú
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Vì Sukuna đã bành trướng lãnh địa ngay lập tức, Angel suy luận rằng ngay cả Sukuna cũng có thể tái tạo thuật thức bằng phản chuyển
Thông tin nhân vật Oshino Shinobu - Monogatari Series
Thông tin nhân vật Oshino Shinobu - Monogatari Series
Oshino Shinobu (忍野 忍, Oshino Shinobu) là một bé ma cà rồng bí ẩn