Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Anh. Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
Đừng dịch những nội dung không đáng tin hay chất lượng thấp. Nếu được, bạn hãy tự kiểm chứng các thông tin bằng các nguồn tham khảo có trong bài gốc.
Bạn phảighi công bản quyền bài gốc trong tóm lược sửa đổi bài dịch. Chẳng hạn, bạn có thể ghi như sau, miễn là trong đó có một liên kết đa ngôn ngữ đến bài gốc Dịch từ English bài gốc bên Wikipedia [[:en:Java Man]]; xin hãy xem lịch sử bài đó để biết ai là tác giả.
Người vượn Java (Homo erectus erectus, tiếng Anh: Java Man) là tên phổ biến của hóa thạch người cổ xưa phát hiện tại Di chỉ Trinil ở đảo Java (Indonesia) vào năm 1891 và 1892. Sau này mẫu vật còn có tên là "Pithecanthropus-1" và "Trinil 2".
Eugène Dubois dẫn dắt nhóm khai quật đã phát hiện một chiếc răng, một xương sọ và xương đùi ở Trinil trên bờ sông Solo ở Đông Java. Cho rằng hóa thạch là đại diện của "mắt xích còn thiếu" giữa loài vượn và con người, Dubois đặt tên cho loài này tên khoa học là Anthropopithecus erectus, sau đó đổi tên thành Pithecanthropus erectus.
Hóa thạch làm dấy lên nhiều tranh cãi. Gần mười năm sau năm 1891, đã có gần 80 cuốn sách hay bài báo đã được công bố về phát hiện của Dubois. Mặc dù lập luận Dubois ít chấp nhận rằng "người vượn Java" là một hình thức chuyển tiếp giữa vượn và con người [1]. Một số bác bỏ những hóa thạch là khỉ không đuôi, và những người khác thì coi như con người hiện đại, trong khi nhiều nhà khoa học coi Java Man là một nhánh nguyên thủy của sự tiến hóa chẳng có gì liên quan đến con người hiện đại. Trong những năm 1930 Dubois còn tuyên bố rằng Pithecanthropus được xây dựng giống như một "vượn khổng lồ" (gibbon), một nỗ lực nhiều hiểu lầm của Dubois để chứng minh rằng nó là "mắt xích còn thiếu".
Sự tương đồng giữa Pithecanthropus erectus (người vượn Java) và Sinanthropus pekinensis (người vượn Bắc Kinh) dẫn đến Ernst Mayr đổi tên cả Homo erectus vào năm 1950, đặt chúng trực tiếp trong cây tiến hóa của con người. Để phân biệt "người vượn Java" với các quần Homo erectus khác, vào những năm 1970 một số nhà khoa học đã bắt đầu coi nó như là một phân loài Homo erectus erectus. Hóa thạch khác được tìm thấy trong nửa đầu của thế kỷ 20 ở Java tại Sangiran và Mojokerto, tất cả đều nhiều tuổi hơn so với những người được Dubois tìm thấy, cũng được coi là một phần của loài Homo erectus. Ước tính tuổi cho ra từ 700 Ka đến 1 Ma, và tại thời điểm phát hiện thì những hóa thạch này là những hóa thạch Hominin lâu đời nhất được tìm thấy. Các hóa thạch người vượn Java đã được trưng bày tại Naturalis Biodiversity Center ở Hà Lan kể từ năm 1900.
Ngày nay hầu hết các cổ nhân học phân loại mẫu vật là loài Homo erectus, và đôi khi được nhấn mạnh bằng cách thêm một phân loài biệt danh theo địa điểm phát hiện là Homo erectus javanicus.
Ciochon, Russell L. (2010), “Divorcing Hominins from the Stegodon–Ailuropoda Fauna: New Views on the Antiquity of Hominins in Asia”, trong John G. Fleagle (biên tập), Out of Africa I: The First Hominin Colonization of Eurasia, Vertebrate Paleobiology and Paleoanthropology Series, Dordrecht: Springer, tr. 111–26, doi:10.1007/978-90-481-9036-2_8, ISBN978-90-481-9035-5. ISBN 978-90-481-9036-2 (online).Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Delisle, Richard G. (2007), Debating Humankind's Place in Nature, 1860–2000: The Nature of Paleoanthropology, Advances in Human Evolution Series, Upper Saddle River (NJ): Pearson Prentice Hall, ISBN0-13-177390-9.
Dennell, Robin. (2009), The Palaeolithic Settlement of Asia, Cambridge World Archaeology, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN978-0-521-84866-4. ISBN 978-0-521-61310-1 (paperback).Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Dennell, Robin. (2010), “'Out of Africa I': Current Problems and Future Prospects”, trong John G. Fleagle (biên tập), Out of Africa I: The First Hominin Colonization of Eurasia, Vertebrate Paleobiology and Paleoanthropology Series, Dordrecht: Springer, tr. 247–74, doi:10.1007/978-90-481-9036-2_15, ISBN978-90-481-9035-5. ISBN 978-90-481-9036-2 (online).Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Huffman, O. Frank; Zaim, Y.; Kappelman, J.; Ruez, D. R., Jr.; de Vos, J.; Rizal, Y.; và đồng nghiệp (2006), “Relocation of the 1936 Mojokerto skull discovery site near Perning, East Java”, Journal of Human Evolution, 50: 431–51, doi:10.1016/j.jhevol.2005.11.002.
Kaifu, Yousuke; Indriati, Etty; Aziz, Fachroel; Kurniawan, Iwan; Baba, Hisao. (2010), “Cranial Morphology and Variation of the Earliest Indonesian Hominids”, trong Christopher J. Norton and David R. Braun (biên tập), Asian Paleoanthropology: From Africa to China and Beyond, Vertebrate Paleobiology and Paleoanthropology Series, Dordrecht: Springer, tr. 143–57, doi:10.1007/978-90-481-9094-2_11, ISBN978-90-481-9093-5. ISBN 978-90-481-9094-2 (online).Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Schmalzer, Sigrid. (2008), The People's Peking Man: Popular Science and Human Identity in Twentieth-Century China, Chicago: University of Chicago Press, ISBN978-0-226-73859-8. ISBN 978-0-226-73860-4 (paperback).Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Swisher, Carl C. III; Curtis, Garniss H.; Lewin, Roger. (2000), Java Man: How Two Geologists Changed Our Understanding of Human Evolution, Chicago: University of Chicago Press, ISBN0-226-78734-6.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
Theunissen, Bert. (1989), Eugène Dubois and the Ape-Man from Java, Boston: Kluwer Academic Publishers, ISBN1-55608-081-6. ISBN 1-55608-082-4 (paperback).Quản lý CS1: postscript (liên kết)
de Vos, John; Sartono, S.; Hardjasasmita, S.; Sondaar, P. Y. (1982), “The fauna from Trinil, type locality of Homo erectus: a reinterpretation”, Geologie en Mijnbouw, 61: 207–11.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
Zaim, Yahdi. (2010), “Geological Evidence for the Earliest Appearance of Hominins in Indonesia”, trong John G. Fleagle (biên tập), Out of Africa I: The First Hominin Colonization of Eurasia, Vertebrate Paleobiology and Paleoanthropology Series, Dordrecht: Springer, tr. 97–110, doi:10.1007/978-90-481-9036-2_7, ISBN978-90-481-9035-5. ISBN 978-90-481-9036-2 (online).Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Hooijer, Dirk A.; Kurtén, Björn (1984). “Trinil and Kedungbrubus: the Pithecanthropus-bearing fossil faunas of Java and their relative age”. Annales Zoologici Fennici. 21 (2): 135–41. JSTOR23734854.
Jacob, Teuku (1973). “Palaeoanthropological discoveries in Indonesia with special reference to the finds of the last two decades”. Journal of Human Evolution. 2 (6): 473–8, IN5–IN11, 479–85. doi:10.1016/0047-2484(73)90125-5.
Kem là một trong những món ăn yêu thích của mọi thế hệ. Đó là lý do mà thế giới kem tại thị trường Việt Nam phát triển rất nhanh và nhiều thương hiệu lớn thế giới cũng có mặt. Dưới đây là top những thương hiệu đang dẫn đầu tại Việt Nam.