Khoái Châu
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Khoái Châu | |||
![]() Đường Sài Thị ở thị trấn Khoái Châu | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | ![]() | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Tỉnh | Hưng Yên | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Khoái Châu | ||
Trụ sở UBND | Đường Nguyễn Khoái, thị trấn Khoái Châu | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 19 xã | ||
Thành lập | 24/7/1999[1]: tái lập | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Phạm Xuân Thắng | ||
Chủ tịch HĐND | Hoàng Văn Tựu | ||
Bí thư Huyện ủy | Nguyễn Đức Sơn | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 20°52′16″B 105°58′59″Đ / 20,871003°B 105,983047°Đ | |||
| |||
Diện tích | 130,82 km²[2] | ||
Dân số (2020) | |||
Tổng cộng | 189.070 người[2] | ||
Thành thị | 8.322 người (4%) | ||
Nông thôn | 180.748 người (96%) | ||
Mật độ | 1.445 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh... | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 330[3] | ||
Biển số xe | 89-E1 | ||
Website | khoaichau | ||
Khoái Châu là một huyện nằm ở phía tây tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
Huyện Khoái Châu nằm ở phía tây của tỉnh Hưng Yên, nằm trên bờ tả ngạn của sông Hồng, cách thành phố Hưng Yên khoảng 29 km về phía tây, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 42 km, có vị trí địa lý:
Huyện Khoái Châu có diện tích 130,82 km², dân số năm 2020 là 189.070 người[2], mật độ dân số đạt 1.445 người/km².
Khoái Châu có địa hình khá phức tạp, cao thấp xen kẽ nhau. Vùng ngoài bãi có địa hình bán lòng chảo dốc dần từ dải đất cao bồi tụ xuống vùng trũng ven đê. Vùng nội đồng nhìn chung có hướng dốc từ bắc xuống nam và từ tây sang đông.
Trên địa bàn huyện còn có sông Bần chảy xuôi từ Bần Yên Nhân, qua Yên Mỹ, Khoái Châu, sang Kim Động. Đầm Dạ Trạch, nằm tại các xã Bình Minh, Dạ Trạch, Hàm Tử, Tứ Dân, Đông Kết đây vốn là một khúc của sông Hồng trước kia, nay do đổi dòng sang hướng tây mà tạo thành.
Khoái Châu có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, đặc trưng là nóng ẩm mưa nhiều. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau thường lạnh, đầu mùa khí hậu tương đối khô, nửa cuối ẩm ướt và có mưa phùn, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 - 24 °C, cao nhất 38 - 39 °C, thấp nhất không dưới 5 °C.
Thời Hùng Vương, Văn Lang được chia thành 15 bộ và Khoái Châu thuộc bộ Giao Chỉ.
Dưới thời nhà Tần trước Công nguyên, Khoái Châu thuộc Tượng Quận.
Nhà Triệu chia lãnh thổ Việt Nam khi đó làm hai quận và Khoái Châu thuộc huyện Chu Diên (朱鳶縣), quận Giao Chỉ.
Thời Tây Hán và Đông Hán, nhà Hán chia lãnh thổ Việt Nam thành 9 quận và Khoái Châu thuộc quận Giao Chỉ.
Thời Đông Ngô, nhà Ngô tách cả nước ra làm hai châu gồm: Quảng Châu, Giao Châu và Khoái Châu thuộc quận Giao Châu.
Thời nhà Tùy và nhà Đường, quận Giao Châu được chia thành 3 quận và Khoái Châu thuộc quận Giao Chỉ.
Đến năm 679 lại chia Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và Khoái Châu thuộc Vũ Bình – Giao Châu.
Sau khi Ngô Quyền giành độc lập, Khoái Châu được gọi là Đằng Châu.
Nhà Đinh, chia cả nước ra thành 10 đạo và Khoái Châu thuộc Đằng Đạo.
Năm 1002, nhà Lê đổi 10 đạo thành lộ, phủ và châu, Khoái Châu thuộc Đằng Châu.
Năm 1005, đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình.
Năm 1010, nhà Lý đổi 10 đạo thành 24 lộ.
Năm 1222, vẫn giữ 24 lộ và Khoái Châu thuộc lộ Khoái Châu gọi là Khoái Lộ.
Năm 1229, nhà Trần đổi 24 lộ của thời Lý thành 12 lộ và Khoái Châu vẫn thuộc Khoái Lộ.
Tháng 4 năm 1297, nhà Trần lại tiếp tục đổi các lộ, phủ, thành, trấn và vùng đất Khoái Châu thuộc Thiên Trường phủ lộ.
Sau khi xâm lược An Nam vào tháng 6 năm 1407, nhà Minh đổi An Nam thành Giao Chỉ, lập thành 17 phủ và vùng Khoái Châu thuộc phủ Kiến Xương.
Năm 1426, khi tiến quân ra Đông Đô, Lê Lợi chia cả nước làm 4 đạo và Khoái Châu thuộc Nam đạo.
Năm Quang Thuận thứ 7 (tháng 6 năm 1466), Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo thừa tuyên và Khoái Châu thuộc thừa tuyên Thiên Trường.
Năm Quang Thuận thứ 10 (tháng 3 năm 1469), năm đầu tiên nhà nước định bản đồ, Thiên Trường lại đổi là Sơn Nam, quản 11 phủ, 42 huyện:
Năm Hồng Đức thứ 21 (tháng 4 năm 1490), cả nước được chia làm 13 xứ và Khoái Châu thuộc xứ Sơn Nam.
Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung đem các lộ của Khoái Châu thuộc vào Hải Dương.
Đến thời Hậu Lê, lại đổi lại như cũ.
Năm Cảnh Hưng thứ 2 (tháng 1 năm 1741), chia Sơn Nam thành 2 lộ Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ, phủ Khoái Châu thuộc lộ Sơn Nam Thượng, phủ Tiên Hưng thuộc Sơn Nam Hạ. Sau đó phủ Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ được đổi lại làm 2 trấn Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ.
Năm Gia Long thứ nhất (1802), lấy 2 trấn thượng và hạ lệ thuộc vào Bắc Thành (Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương là 5 nội trấn của Bắc Thành).
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), trấn Sơn Nam Thượng đổi là trấn Sơn Nam, trấn Sơn Nam Hạ đổi là trấn Nam Định.
Năm Minh Mạng thứ 12 (tháng 10 năm 1831), vua Minh Mạng tiến hành một cuộc cải cách hành chính địa phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh, chia cả nước thành 30 tỉnh, trong đó có tỉnh Hưng Yên. Các trấn phía Bắc được đổi thành 18 tỉnh, dưới tỉnh là phủ, huyện, châu và tổng, xã. Tỉnh Hưng Yên có phủ Khoái Châu và 5 huyện (Đông An, Kim Động, Thiên Thi, Phù Dung, Tiên Lữ). Cải tổ lại hệ thống các quan lại đứng đầu tỉnh, bỏ các chức cũ để đặt mới như Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lãnh binh ở các tỉnh.
Huyện Đông An gồm các tổng: Bái, Mễ, Đại Quan, Phú Khê, Bình Dân, Yên Lạc, Yên Lịch, Yên Vĩnh, Yên Cảnh, Ninh Tập, Yên Phú, Tử Dương.
Sau năm 1945, huyện Khoái Châu thuộc tỉnh Hưng Yên.
Ngày 27 tháng 1 năm 1968, Quốc hội khóa III ban hành Nghị quyết[4] về việc hợp nhất tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên thành một tỉnh lấy tên là tỉnh Hải Hưng và huyện Khoái Châu thuộc tỉnh Hải Hưng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 70-CP[5] về việc sáp nhập 14 xã: Hoàn Long, Yên Phú, Yên Hòa, Tân Tiến, Long Hưng, Cửu Cao, Xuân Quan, Phụng Công, Văn Phúc, Liên Nghĩa, Thắng Lợi, Mễ Sở, Việt Cường, Minh Châu của huyện Văn Yên vào huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khóa IX ban hành Nghị quyết[6] về việc chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Huyện Châu Giang thuộc tỉnh Hưng Yên.
Ngày 24 tháng 9 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 102-CP[7] về việc thành lập thị trấn Khoái Châu trên cơ sở xã Kim Ngưu cũ và 10,13 ha diện tích tự nhiên của xã An Vĩ.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/1999/NĐ-CP[1] về việc chia huyện Châu Giang thành 2 huyện Khoái Châu và Văn Giang.
Huyện Khoái Châu có 13.073,1 ha diện tích tự nhiên và 184.079 nhân khẩu, gồm 25 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: Đông Tảo, Dạ Trạch, Hàm Tử, Ông Đình, Bình Minh, An Vĩ, Bình Kiều, Tân Dân, Đông Kết, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Liên Khê, Chí Tân, Nhuế Dương, Đại Hưng, Thuần Hưng, Thành Công, Phùng Hưng, Việt Hòa, Hồng Tiến, Đồng Tiến, Dân Tiến và thị trấn Khoái Châu.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1248/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2023–2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2024)[8]. Theo đó:
Từ đó, huyện Khoái Châu có 1 thị trấn và 19 xã như hiện nay.
Huyện Khoái Châu có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Khoái Châu (huyện lỵ) và 19 xã: An Vĩ, Bình Minh, Chí Minh, Đại Tập, Dân Tiến, Đông Kết, Đông Ninh, Đông Tảo, Đồng Tiến, Liên Khê, Nguyễn Huệ, Ông Đình, Phạm Hồng Thái, Phùng Hưng, Tân Châu, Tân Dân, Thuần Hưng, Tứ Dân, Việt Hòa.
Tiềm năng du lịch của Khoái Châu khá phong phú cả về tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Toàn huyện có 22 di tích lịch sử được xếp hạng, trong đó đáng chú ý nhất là quần thể Đền Đa Hòa - Bình Minh, Đền Hóa - Dạ Trạch gắn với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung nằm trong tuyến du lịch chính trên sông Hồng (Hà Nội - Phố Hiến). Đền Dạ Trạch gắn với các địa danh lịch sử oai hùng của Triệu Quang Phục chống giặc nhà Lương.
Huyện Khoái Châu trước là một phần của huyện Châu Giang (do nhập hai huyện Khoái Châu với Văn Giang, từ năm 1979). Huyện Khoái Châu có nhiều địa danh nổi tiếng:
Là một huyện cách thủ đô khoảng 20 km nên ở Khoái Châu có rất nhiều làng nghề. Riêng nhóm nghề thu gom và tái chế phế liệu phát triển mạnh từ khu vực xã Dân Tiến đến Bô Thời có hàng nghìn hộ tham gia thu gom, kinh doanh và tái chế phế liệu tại địa phương và mở xưởng thu gom tại nhiều tỉnh thành khác. Một số làng nghề truyền thống, nghề truyền thống, làng có nghề như:
Có quốc lộ 39, đường vành đai 4 vùng thủ đô Hà Nội đi qua.