Quốc hội Việt Nam | |
---|---|
Quốc hội Việt Nam khóa II | |
Quốc huy | |
Dạng | |
Mô hình | |
Các viện | Quốc hội |
Thời gian nhiệm kỳ | 06/07/1960 – 24/06/1964 3 năm, 354 ngày |
Lịch sử | |
Thành lập | 6 tháng 1 năm 1946 |
Tiền nhiệm | Quốc hội khóa I |
Kế nhiệm | Quốc hội khóa III |
Kỳ họp mới bắt đầu | 06-15 tháng 7 năm 1960: Kỳ họp thứ nhất |
Lãnh đạo | |
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký | |
Xuân Thủy (Lao động) Nguyễn Xiển (Xã hội) Trần Đăng Khoa (Dân chủ) Chu Văn Tấn (Lao động) Nguyễn Văn Hưởng (Lao động) [1] Từ 06 tháng 7 năm 1960 | |
Cơ cấu | |
Số ghế | 453 362 ĐB qua bầu cử 91 ĐB khóa I Miền Nam lưu nhiệm |
Chính đảng | Đại biểu qua bầu cử (362), trong đó:
Đại biểu Miền Nam khóa I lưu nhiệm (91) [3] |
Nhiệm kỳ | 1960-1964 |
Bầu cử | |
Bầu cử vừa qua | 08/05/1960 Bầu cử Quốc hội khóa II |
Bầu cử tiếp theo | 26/04/1964 Bầu cử Quốc hội khóa III |
Trụ sở | |
Nhà hát Lớn Hà Nội | |
Trang web | |
quochoi |
Quốc hội Việt Nam khóa II (nhiệm kỳ 1960–1964) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là Quốc hội đầu tiên hoạt động trong thời kỳ đất nước bị chia cắt. Quốc hội thứ hai được bầu ngày 8 tháng 5 năm 1960 và diễn ra trong 8 kỳ họp, có vai trò quan trọng thực thi các quyết sách trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam và kiện toàn các cơ quan trọng yếu trong bộ máy nhà nước.
Là khóa Quốc hội đầu tiên hoạt động theo những nguyên tắc của Hiến pháp 1959, Quốc hội khóa II đã thông qua 6 luật và 9 pháp lệnh, trong đó có những đạo luật cơ bản về tổ chức nhà nước như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.[1] Ngoài ra, cũng trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Đây cũng là lần đầu tiên cơ quan lãnh đạo thường trực của Quốc hội được được gọi là Ủy ban Thường vụ Quốc hội (thay thế cho "Ban thường trực Quốc hội" cũ), và thủ trưởng cơ quan này gọi là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng thời là Chủ tịch Quốc hội. Trường Chinh là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ khóa II, được bầu tại phiên bế mạc của Kỳ họp đầu tiên diễn ra ngày 15 tháng 7 năm 1960.
Bầu cử Quốc hội Việt Nam năm 1960 là cuộc tổng tuyển cử mở đầu cho Khóa II của Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhiệm kỳ 1960–1964.
Cuộc bầu cử diễn ra ngày 8 tháng 5 năm 1960 tại 22.530 khu vực bỏ phiếu thuộc 42 đơn vị bầu cử ở miền Bắc Việt Nam. Tổng số ứng viên ra tranh cử là 455 ứng cử viên, để chọn lấy 362 đại biểu. Trong tổng số 8.394.987 cử tri có trong danh sách, có 8.192.795 người đã đi bỏ phiếu. Tỷ số đầu phiếu đạt 97,59%.[1]
Ngoài 362 đại biểu qua bầu cử trên còn có 91 ghế dành cho các đại biểu miền Nam ở khóa I vì không thể tổ chức bầu cử nên được Quốc hội quyết định kéo dài nhiệm kỳ. Trong thời gian Quốc hội nhóm họp thì 2 trong số 91 vị đại biểu này đã qua đời nên bỏ trống ghế; vì vậy tổng cộng chỉ còn 451 đại biểu.
Quốc hội khóa II diễn ra trong 8 kỳ họp.
Kỳ họp thứ 4 diễn ra từ ngày 17 đến ngày 26-4-1962.
Kỳ họp thứ 5 diễn ra từ ngày 22 đến ngày 27-6-1962.
Kỳ họp thứ 6 diễn ra từ 28-4 đến 8-5-1963
Quốc hội định tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh Huân chương Sao vàng, Huân chương cao quý nhất của Nhà nước. Biết tin, Hồ Chí Minh tỏ lòng biết ơn Quốc hội và xin phép chưa nhận Huân hương ấy.
Kỳ họp thứ 8 diễn ra từ 29-3 đến 4-4-1964 nghiên cứu thảo luận báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Chính trị Đặc biệt. Trước đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Chính trị Đặc biệt họp ngày 7-3-1964 để biểu thị quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất đất nước. Dự Hội nghị có 327 đại biểu, thay mặt cho các chính đảng, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo, ban ngành, thay mặt cho đồng bào miền Nam tập kết và kiều bào ngoài nước.
Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã bầu ra Hội đồng Chính phủ nhiệm kỳ II (1960-1964) gồm
<ref>
không hợp lệ: tên “:0” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác