Quốc hội Việt Nam | |
---|---|
Quốc hội Việt Nam khóa III | |
Quốc huy | |
Dạng | |
Mô hình | |
Các viện | Quốc hội |
Thời gian nhiệm kỳ | 25/06/1964 – 06/06/1971 6 năm, 346 ngày |
Lịch sử | |
Thành lập | 6 tháng 1 năm 1946 |
Tiền nhiệm | Quốc hội khóa II |
Kế nhiệm | Quốc hội khóa IV |
Kỳ họp mới bắt đầu | 25 tháng 6 - 3 tháng 7 năm 1964: Kỳ họp thứ nhất |
Lãnh đạo | |
Hoàng Văn Hoan (Lao động) Nguyễn Xiển (Xã hội) Trần Đăng Khoa (Dân chủ) Nguyễn Thị Thập (Lao động) Chu Văn Tấn (Lao động) Nguyễn Văn Hưởng (Lao động) (đến 26/03/1969) Từ 03 tháng 7 năm 1964 | |
Tổng Thư ký | |
Cơ cấu | |
Số ghế | 455 366 ĐB qua bầu cử 89 ĐB Miền Nam lưu nhiệm |
Chính đảng | Đại biểu qua bầu cử (366), trong đó:
Đại biểu Miền Nam lưu nhiệm (89) |
Nhiệm kỳ | 1964-1971 |
Bầu cử | |
Bầu cử vừa qua | 26/04/1964 Bầu cử Quốc hội khóa III |
Bầu cử tiếp theo | 11/04/1971 Bầu cử Quốc hội khóa IV |
Trụ sở | |
Hội trường Ba Đình, Hà Nội | |
Trang web | |
quochoi |
Quốc hội Việt Nam khóa III (1964-1971) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ ba của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hội thứ ba được bầu ngày 26 tháng 4 năm 1964, kéo dài 7 năm (lẽ ra hết nhiệm kỳ từ ngày 26 tháng 4 năm 1968 song do tình hình chiến sự nên căn cứ vào Điều 45 của Hiến pháp 1959, Quốc hội đã ra Nghị quyết kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội khóa III) và diễn ra trong 7 kỳ họp.
Quốc hội khóa III bầu cử vào ngày 26 tháng 4 năm 1964, bầu 366 đại biểu tại 59 khu vực bầu cử. Ngoài 366 đại biểu được bầu có thêm 89 đại biểu khóa II miền Nam được lưu nhiệm nâng tổng số đại biểu khóa III sau bầu cử lên 455. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu: 8.580.002 người trên 8.775.002 cử tri, đạt 97,77%.[2] Cuộc bầu cử được ghi nhận có nhiều đơn vị bầu cử đạt tỷ lệ đi bầu rất cao; thậm chí ở nhiều đơn vị bầu cử có nhiều cử tri cao tuổi, tự chống gậy tới nơi bầu cử.[3]
Hội đồng bầu cử tổng kết và công bố kết quả bầu cử vào ngày 11 tháng 5 năm 1964.
Kỳ họp thứ nhất diễn ra từ 25 tháng 6 đến 3 tháng 7 năm 1964 có 429/455 đại biểu tham dự. Ngày 3 tháng 7, Quốc hội khóa III đã bầu ra:[3]
Kỳ họp thứ 3 diễn ra từ ngày 15 đến ngày 22-4-1966.
Kỳ họp thứ tư diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22-5-1968.
Kỳ họp thứ 5 diễn ra từ ngày 22 đến ngày 23-9-1969. Ông Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước, ông Nguyễn Lương Bằng được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Kỳ họp thứ 6 diễn ra từ ngày 31-5 đến ngày 5-6-1970.
Tại kỳ họp thứ 7 (1 - 4/3/1971), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội khóa IV vào ngày chủ nhật 11/04/1971. Trong khoảng thời gian đó, vào tháng 6/1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh Chính phủ như một tổ chức có tính chất đại diện đầy đủ và cao nhất của nhân dân miền Nam và được quốc tế công nhận. Vì vậy, việc lưu nhiệm các đại biểu khóa cũ miền Nam không còn cần thiết và sẽ được kết thúc nhiệm kỳ cùng với nhiệm kỳ khóa III này.
Trong suốt nhiệm kỳ Quốc hội khóa III, Quốc hội đã nhiều lần có sự thay đổi về bộ máy Nhà nước, địa giới khu vực và cán bộ cấp cao, tiêu biểu là[3]
Ngày 2/09/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Ngày 9/09/1969, hơn 10 vạn người và 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới trước quảng trường Ba Đình dự lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kỳ họp thứ V của Quốc hội ngày 22/09/1969, là phiên họp đặc biệt để truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thay thế. Kết quả: Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước, Nguyễn Lương Bằng được bầu làm Phó Chủ tịch nước với 361/361 phiếu của đại biểu tham dự kỳ họp.
Tại miền Nam, ngày 6 tháng 6 năm 1969, theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (01/1968), Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp gồm đại biểu 2 tổ chức: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam cùng đại biểu của các lực lượng yêu nước khác ở miền Nam, tuyên bố lập chính thể Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bầu Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn[3]
Ngoài các nước cùng khối Xã hội chủ nghĩa, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn tích cực mở rộng hoạt động đối ngoại với các nước trên thế giới nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với cách mạng. Riêng trong khóa III, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập thêm quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với 13 nước: Cộng hòa Congo (16-7-1964), Cộng hòa Indonesia (10-8-1964), Cộng hòa thống nhất Tandania (14-2-1965), Cộng hòa Hồi giáo Mauritanie (15-3-1965), Cộng hòa Ghana (25-3-1965), Cộng hòa Ả Rập Syria (21-7-1966), Vương quốc Campuchia (24-6-1967), Cộng hòa Irắc (10-7-1968), Cộng hòa Sudan (26-8-1968), Vương quốc Thụy Điển (11-1-1969), Cộng hòa Sénégal (29-12-1969), Cộng hòa Dân chủ Somali (7-6-1970), Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanca (21-7-1970).[3]