![]() Guirassy chơi cho Guinea tại Cúp bóng đá châu Phi 2023 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Serhou Yadaly Guirassy[1] | ||
Ngày sinh | 12 tháng 3, 1996 [1] | ||
Nơi sinh | Arles, Pháp | ||
Chiều cao | 1,87 m[2] | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Borussia Dortmund | ||
Số áo | 9 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2009–2010 | Montargis | ||
2010–2011 | Amilly | ||
2011–2013 | Laval | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2013–2015 | Laval B | 16 | (14) |
2013–2015 | Laval | 33 | (6) |
2015–2016 | Lille | 8 | (0) |
2015–2016 | → Lille B | 4 | (4) |
2016 | → Auxerre (mượn) | 16 | (8) |
2016–2019 | 1. FC Köln | 37 | (6) |
2016–2017 | → 1. FC Köln II | 5 | (2) |
2019 | → Amiens (mượn) | 13 | (3) |
2019–2020 | Amiens | 24 | (10) |
2020–2023 | Rennes | 65 | (19) |
2022–2023 | → VfB Stuttgart (mượn) | 22 | (11) |
2023–2024 | VfB Stuttgart | 28 | (28) |
2024– | Borussia Dortmund | 5 | (4) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2012 | U-16 Pháp | 4 | (1) |
2014–2015 | U-19 Pháp | 11 | (6) |
2015–2016 | U-20 Pháp | 9 | (4) |
2022– | Guinea | 21 | (9) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21:11, 18 tháng 10 năm 2024 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 23:00, 16 tháng 11 năm 2024 (UTC) |
Serhou Yadaly Guirassy[note 1] (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Borussia Dortmund tại Bundesliga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Guinée.
Guirassy sinh ra tại Arles, Pháp, với cha mẹ là người Guinea.[4]
Guirassy bắt đầu sự nghiệp khi chơi cho các câu lạc bộ là Montargis, Amilly và Laval.[5]
Vào tháng 7 năm 2015, anh gia nhập câu lạc bộ Lille từ Laval, ký hợp đồng bốn năm. Phí chuyển nhượng được báo cáo là khoảng 1 triệu euro.[6][7]
Guirassy gia nhập 1. FC Köln vào tháng 7 năm 2016, ký hợp đồng có thời hạn năm năm.[8][9] Ngay sau khi đến Köln, anh đã trải qua cuộc phẫu thuật rách sụn chêm. Sau đó, trong nửa đầu mùa giải 2016–17, các vấn đề về cơ đã khiến anh không thể thi đấu.[10] He made his Bundesliga debut on matchday 26 on 1 April 2017, in a 2–1 defeat against Hamburger SV.[10][11] Vài ngày sau, anh lại tiếp tục không thể chơi vì vấn đề về cơ. Vào cuối mùa giải, Guirassy đã phải hứng chịu chấn thương viêm khớp xương mu.[10]
Trong mùa giải thứ hai, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong trận thua 2–1 trên sân khách trước Bayer Levekusen vào ngày 28 tháng 10 năm 2017.[12] Năm ngày sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Europa League trong chiến thắng 5–2 trước BATE Borisov.[13] Cuối tháng đó, anh ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Arsenal trong cùng giải đấu.[14] Cuối cùng, trong năm đó câu lạc bộ xếp vị trí cuối cùng trong giải đấu năm ấy và phải xuống hạng, và Guirassy là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất của câu lạc bộ trên mọi đấu trường.[12]
Vào tháng 1 năm 2019, anh được cho mượn sang câu lạc bộ Amiens cho đến hết mùa giải.[15] Amiens đã thực hiện quyền chọn và mua bản quyền của Guirassy cho mùa giải sắp tới. Phí chuyển nhượng được báo cáo là khoảng 5 đến 6 triệu Euro.[16] Amiens sau đó đã tận dụng cơ hội này và biến thỏa thuận hai bên thành vĩnh viễn.[17]
Vào ngày 15 tháng 2 năm 2020, anh ghi một cú đúp trong trận hòa 4–4 khi đối đầu với Paris Saint-Germain, với bàn thắng thứ hai của anh đã cân bằng tỷ số trong thời gian bù giờ.[18] Tuy nhiên, Amiens đã xuống hạng khi đang ở vị trí thứ 19, khi giải đấu bị hoãn lại sớm do sự bùng phát của dịch COVID-19 tại Pháp.[19]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2020, Guirassy đã gia nhập đội bóng Ligue 1 Rennes theo hợp đồng có thời hạn năm năm.[20] Anh ấy đã ghi hai bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong cùng một trận đấu, trong chiến thắng 4–2 trước Nîmes.[21] Vào ngày 20 tháng 10 năm 2020, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League trong trận hòa 1–1 với Krasnodar tại mùa giải 2020–21,[22] đó cũng là bàn thắng đầu tiên của câu lạc bộ anh trong giải đấu.[12] Và vào ngày 20 tháng 3 năm 2022, anh đã ghi được hat-trick đầu tiên trong sự nghiệp trong chiến thắng 6–1 trước FC Metz.[23]
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2022, Guirassy gia nhập câu lạc bộ Bundesliga VfB Stuttgart theo một bản hợp đồng cho mượn có thời hạn đến hết mùa giải 2022–23.[24] Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, câu lạc bộ thông báo rằng họ đã kích hoạt tùy chọn để chuyển nhượng vĩnh viễn anh bằng cách ký hợp đồng có thời hạn ba năm.[25]
Trong mùa giải 2023–24, Guirassy đã ghi được mười bàn thắng trong năm trận đầu tiên, bao gồm cú hat-trick đầu tiên của anh tại Bundesliga vào lưới Mainz, cân bằng kỷ lục trước đó do Robert Lewandowski từng lập được vào mùa giải 2020–21.[12] Anh cũng lập kỷ lục ở Bundesliga về số bàn thắng nhiều nhất của một cầu thủ trong bảy trận đầu tiên của một mùa giải bằng cách ghi một hat-trick trong vòng 15 phút trong chiến thắng 3–1 trước Wolfsburg. Thành tích này lập kỷ lục với 13 bàn thắng, vượt qua kỷ lục 11 bàn thắng của Robert Lewandowski ở cả mùa giải 2019–20 và 2020–21.[26] Sau khi ghi bàn thắng thứ 14 trong mùa giải trong trận đấu trên sân khách với Union Berlin, anh đã bị thay ra sau 30 phút thi đấu do chấn thương gân kheo.[27] Sau đó anh đã bỏ lỡ hai trận đấu,[28] trước khi anh ghi bàn thắng trên chấm phạt đền để đảm bảo chiến thắng 2–1 trước Borussia Dortmund, và đạt 15 bàn thắng trong chín trận đầu tiên của mùa giải.[29]
Vào ngày 13 tháng 4 năm 2024, anh ghi bàn thắng thứ 25 tại Bundesliga trong chiến thắng 3–0 trước Eintracht Frankfurt, phá vỡ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất của một cầu thủ Stuttgart trong một mùa giải duy nhất do Mario Gómez lập được trong mùa giải 2008–09.[30] Vài ngày sau, anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 3, đạt giải thưởng này lần thứ hai trong mùa giải sau khi đoạt được vào tháng 9 năm 2023.[31] Vào ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải 2023–24, anh đã ghi một cú đúp trong chiến thắng 4–0 trước Borussia Mönchengladbach, kết thúc mùa giải với 28 bàn thắng sau 28 trận, chỉ sau Harry Kane trong cuộc đua chiếc giày vàng năm ấy.[32] Ngoài ra, anh còn ghi bàn mở tỷ số lần thứ 12 trong mùa giải đó, san bằng kỷ lục tại Bundesliga do Gerd Müller lập được vào mùa giải 1969–70, Ailton vào mùa giải 2003–04 và Stefan Kießling vào mùa giải 2012–13.[33] Guirassy được xếp hạng là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất châu Phi trong mùa giải 2023–24 bởi tờ báo African Folder.[34]
Vào ngày 18 tháng 7 năm 2024, Guirassy đã ký hợp đồng bốn năm với Borussia Dortmund với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 18 triệu euro.[35][36]
Guirassy là cầu thủ trẻ quốc tế của Pháp.[37] Tuy nhiên, anh quyết định đại diện cho quê hương của cha mẹ mình, Cộng hòa Guinea, ở cấp độ đội tuyển quốc gia. Anh ra mắt trong đội tuyển quốc gia Guinea trong trận giao hữu 0–0 với Nam Phi vào ngày 25 tháng 3 năm 2022, được tổ chức tại Kortrijk, Bỉ.[38]
Vào tháng 12 năm 2023, anh có tên trong đội hình Guinea tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2023 tại Bờ Biển Ngà.[39]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia[a] | Cúp liên đoàn[b] | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Laval B | 2013–14 | CFA 2 | 10 | 6 | — | — | — | — | 10 | 6 | ||||
2014–15 | 6 | 8 | — | — | — | — | 6 | 8 | ||||||
Tổng cộng | 16 | 14 | — | — | — | — | 16 | 14 | ||||||
Laval | 2013–14 | Ligue 2 | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 4 | 0 | ||
2014–15 | 29 | 6 | 2 | 1 | 3 | 0 | — | — | 34 | 7 | ||||
Tổng cộng | 33 | 6 | 2 | 1 | 3 | 0 | — | — | 38 | 7 | ||||
Lille B | 2015–16 | CFA 2 | 4 | 4 | — | — | — | — | 4 | 4 | ||||
Lille | 2015–16 | Ligue 1 | 8 | 0 | 0 | 0 | 1 | 1 | — | — | 9 | 1 | ||
Auxerre (mượn) | 2015–16 | Ligue 2 | 16 | 8 | 0 | 0 | — | — | — | 16 | 8 | |||
1. FC Köln II | 2016–17 | Regionalliga | 4 | 2 | — | — | — | — | 4 | 2 | ||||
2017–18 | 1 | 0 | — | — | — | — | 1 | 0 | ||||||
Tổng cộng | 5 | 2 | — | — | — | — | 5 | 2 | ||||||
1. FC Köln | 2016–17 | Bundesliga | 6 | 0 | 0 | 0 | — | — | — | 6 | 0 | |||
2017–18 | 15 | 4 | 2 | 1 | — | 5[c] | 2 | — | 22 | 7 | ||||
2018–19 | 2. Bundesliga | 16 | 2 | 1 | 0 | — | — | — | 17 | 2 | ||||
Tổng cộng | 37 | 6 | 3 | 1 | — | 5 | 2 | — | 45 | 9 | ||||
Amiens (mượn) | 2018–19 | Ligue 1 | 13 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 13 | 3 | ||
Amiens | 2019–20 | 23 | 9 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | — | 24 | 9 | |||
2020–21 | Ligue 2 | 1 | 1 | 0 | 0 | — | — | — | 1 | 1 | ||||
Tổng cộng | 37 | 13 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | — | 38 | 13 | ||||
Rennes | 2020–21 | Ligue 1 | 27 | 10 | 1 | 1 | — | 4[d] | 2 | — | 32 | 13 | ||
2021–22 | 37 | 9 | 2 | 0 | — | 9[e] | 3 | — | 48 | 12 | ||||
2022–23 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | — | 1 | 0 | ||||
Tổng cộng | 65 | 19 | 3 | 1 | — | 13 | 5 | — | 81 | 25 | ||||
VfB Stuttgart (mượn) | 2022–23 | Bundesliga | 22 | 11 | 4 | 2 | — | — | 2[f] | 1 | 28 | 14 | ||
VfB Stuttgart | 2023–24 | 28 | 28 | 2 | 2 | — | — | — | 30 | 30 | ||||
Tổng cộng | 50 | 39 | 6 | 4 | — | — | 2 | 1 | 58 | 44 | ||||
Borussia Dortmund | 2024–25 | Bundesliga | 5 | 4 | 0 | 0 | — | 3[d] | 3 | — | 8 | 7 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 276 | 115 | 15 | 7 | 4 | 1 | 21 | 10 | 2 | 1 | 318 | 134 |
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Guinea | 2022 | 5 | 0 |
2023 | 7 | 3 | |
2024 | 9 | 6 | |
Tổng cộng | 21 | 9 |
# | Ngày | Địa điểm | Lần ra sân | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 14 tháng 6 năm 2023 | Sân vận động Marrakech, Marrakesh, Maroc | 6 | ![]() |
1–0 | 1–2 | Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2023 |
2 | 17 tháng 6 năm 2023 | Sân vận động RCDE, Barcelona, Tây Ban Nha | 7 | ![]() |
1–2 | 1–4 | Giao hữu |
3 | 17 tháng 10 năm 2023 | Estádio Algarve, Faro/Loulé, Bồ Đào Nha | 10 | ![]() |
1–0 | 1–1 | |
4 | 12 tháng 10 năm 2024 | Sân vận động Quốc gia Bờ Biển Ngà, Abidjan, Bờ Biển Ngà | 19 | ![]() |
1–0 | 4–1 | Vòng loại Cúp bóng đá Châu Phi 2025 |
5 | 2–0 | ||||||
6 | 3–0 | ||||||
7 | 15 tháng 10 năm 2024 | 20 | 1–0 | 3–0 | |||
8 | 3–0 | ||||||
9 | 16 tháng 11 năm 2024 | 21 | ![]() |
1–0 | 1–0 |
Cá nhân