![]() | Trang hay phần này đang được viết mới, mở rộng hoặc đại tu. Bạn cũng có thể giúp xây dựng trang này. Nếu trang này không được sửa đổi gì trong vài ngày, bạn có thể gỡ bản mẫu này xuống. Nếu bạn là người đã đặt bản mẫu này, đang viết bài và không muốn bị mâu thuẫn sửa đổi với người khác, hãy treo bản mẫu {{đang sửa đổi}} .Sửa đổi cuối: Leomessichristanoronaldo (thảo luận · đóng góp) vào 0 giây trước. (làm mới) |
![]() | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Võ Hoàng Bửu | ||
Ngày sinh | 10 tháng 7, 1968 | ||
Nơi sinh | Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa | ||
Chiều cao | 1,71 m | ||
Vị trí | Tiền vệ phòng ngự | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1975–1983 | Cảng Sài Gòn | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1988–2005 | Cảng Sài Gòn | 108 | (49) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1993–2000 | Việt Nam | 26 | (7) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Võ Hoàng Bửu (sinh 10 tháng 7 năm 1968) là một cầu thủ bóng đá chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ bóng đá Cảng Sài Gòn và đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. Ông là đội trưởng của Việt Nam tại một số các giải đấu như Tiger Cup 1996 và SEA Games 1997. Ông từng giành Quả bóng vàng Việt Nam năm 1996. Sau khi giải nghệ, ông chuyển sang làm công tác huấn luyện. Võ Hoàng Bửu nổi tiếng nhờ biệt tài đá phạt đền, toàn bộ 7 bàn thắng mà ông ghi cho đội tuyển đều là những cú đá phạt đền.[1]
Võ Hoàng Bửu sinh ngày 10 tháng 7 năm 1968 tại Sài Gòn.
Từ nhỏ, Võ Hoàng Bửu đã nảy sinh niềm đam mê với trái bóng. Ông không hứng thú với việc chơi bóng với những người bạn đồng trang lứa mà luôn hứng thú với những trận đấu khó. Dù đá với các anh lớn, là người nhỏ tuổi nhất trên sân nhưng phong cách chơi bóng của ông vẫn được đánh giá là chững chạc nhất sân và rất già dơ. Võ Hoàng Bửu luôn bị kích thích với các trận đấu căng thẳng, các đối thủ mạnh. Dưới áp lực càng lớn, ông càng chơi thăng hoa.[2]
Võ Hoàng Bửu chỉ trung thành với màu áo Cảng Sài Gòn trong suốt sự nghiệp của mình. Cùng với Cảng Sài Gòn, ông đã vô địch quốc gia ba lần vào các mùa bóng 1993–94, 1997 và 2001–02 và hai Cúp quốc gia mùa bóng 1992 và 1999–2000. Võ Hoàng Bửu lần đầu tuyên bố giải nghệ vào mùa giải 2003, đúng vào mùa giải Cảng Sài Gòn xuống hạng.[2]
Tuy nhiên, chỉ một năm sau, do Cảng Sài Gòn lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn và thiếu nhân tố mới, Võ Hoàng Bửu đã tái xuất sân cỏ tại giai đoạn hai của mùa giải 2004. Ông cùng các lão tướng Huỳnh Hồng Sơn, Hồ Văn Lợi giúp Cảng Sài Gòn vô địch Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 2004, trở lại hạng đấu cao nhất quốc gia chỉ sau một mùa giải. Ông chính thức giã từ sự nghiệp vào năm 2005 ở tuổi 35.[3][4]
Võ Hoàng Bửu lần đầu tiên được triệu tập lên đội tuyển vào năm 1993 để tham dự Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994. Tại vòng loại này, ông được thi đấu chính thức trong 4 trên tổng số 8 trận.[5] Sau đó, ông có tên trong danh sách đội tuyển tham dự SEA Games 17 tại Singapore. Tuy nhiên, Võ Hoàng Bửu đã bỏ lỡ kì SEA Games này do chấn thương.
Ông là một trong những thành viên chủ chốt của Việt Nam tại các kỳ SEA Games 1995, SEA Games 1997 và đặc biệt là tại Tiger Cup 1996. Ngoài khả năng phòng ngự xuất sắc, ông còn là một chuyên gia sút phạt đền của đội tuyển và được đồng đội đặt cho biệt danh "Bửu voi" nhờ thể lực sung mãn của ông. Tại SEA Games 95, ông là người ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Việt Nam bằng quả sút phạt đền trong trận gặp Malaysia.
Năm 1996, trong trận giao hữu diễn ra trên sân vận động Hàng Đẫy giữa đội tuyển Việt Nam và Juventus F.C., đương kim vô địch UEFA Champions League năm đó, Võ Hoàng Bửu là người đã ghi bàn thắng rút ngắn tỉ số xuống 1–2 cho đội tuyển Việt Nam từ chấm phạt đền. Tại Tiger Cup 1996, ông mang băng đội trưởng đội tuyển và ghi bàn thắng gỡ hòa 1–1 cho đội tuyển trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng trước Indonesia từ chấm phạt đền, trực tiếp giúp cho Việt Nam giành vé vào bán kết. Ông còn ghi được thêm 3 bàn thắng từ chấm phạt đền nữa trong giải đấu này, một bàn trong trận mở màn với Campuchia, một bàn trong trận bán kết với Thái Lan và một bàn trong trận tái đấu Indonesia, đem về tấm huy chương đồng cho Việt Nam. Với 4 bàn thắng, ông là cầu thủ Việt Nam ghi được nhiều bàn thắng nhất tại Tiger Cup 1996. Ông khép lại mùa giải thành công nhất trong sự nghiệp bằng danh hiệu quả bóng vàng Việt Nam, vượt qua hai người đồng đội Trần Công Minh và Nguyễn Hồng Sơn.[1]
Năm 1997, ông tiếp tục là đội trưởng đội tuyển Việt Nam tại SEA Games 19 và cùng đội tuyển đoạt huy chương đồng. Năm 1998, do đã lớn tuổi và dính chấn thương, ông không còn được triệu tập vào đội tuyển quốc gia nữa. Tuy nhiên, năm 2000, ông được gọi trở lại đội tuyển tham dự Tiger Cup 2000 nhưng không để lại nhiều dấu ấn và quyết định giã từ đội tuyển ở tuổi 32.[6]
Sau khi giã từ sự nghiệp cầu thủ, Võ Hoàng Bửu chuyển qua huấn luyện đội trẻ của Cảng Sài Gòn. Mùa bóng 2007, Võ Hoàng Bửu chính thức trở thành huấn luyện viên trưởng của đội Thép Miền Nam Cảng Sài Gòn nhưng do sức ép công việc khiến Bửu voi từ chức ngay giữa mùa và nhường lại cho Lư Đình Tuấn. Mùa giải 2008 ông đến dẫn dắt đội Tây Ninh thi đấu ở giải hạng nhất và giúp đội bóng này trụ hạng thành công. Sau đó ông trở về TP.HCM làm bóng đá phong trào thành phố. Năm 2009 được bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội U19 Việt Nam thi đấu giải U19 Đông Nam Á và sau đó trở lại dẫn dắt đội TP.HCM nhưng không thành công.
![]() | Phần này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó. (2/2025) |
Đội tuyển | Năm | Số lần ra sân | Số bàn thắng |
---|---|---|---|
Việt Nam | 1993 | 4 | 0 |
1995 | 1 | 1 | |
1996 | 4 | 4 | |
1997 | 9 | 1 | |
1998 | 2 | 1 | |
1999 | 0 | 0 | |
2000 | 6 | 1 | |
Tổng cộng | 26 | 7 |
# | Lần ra sân | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Tỷ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 5 | 4 tháng 12 năm 1995 | Sân vận động kỷ niệm 700 năm, Chiang Mai, Thái Lan | ![]() |
2–0 | 2–0 | Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1995 |
2 | 6 | 2 tháng 9 năm 1996 | Sân vận động Jurong, Jurong, Singapore | ![]() |
3–1 | 3–1 | Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1996 |
3 | 7 | 11 tháng 9 năm 1996 | ![]() |
1–1 | 1–1 | ||
4 | 8 | 13 tháng 9 năm 1996 | Sân vận động Quốc gia, Kallang, Singapore | ![]() |
1–4 | 2–4 | |
5 | 9 | 11 tháng 9 năm 1996 | ![]() |
3–1 | 3–2 | ||
6 | 17 | 16 tháng 10 năm 1997 | Sân vận động Senayan, Jakarta, Indonesia | ![]() |
1–1 | 1–2 | Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1997 |
7 | 19 | 19 tháng 11 năm 1998 | Hồng Kông | ![]() |
1–1 | 1–1 | Giao hữu |
Cảng Sài Gòn
Việt Nam
Cá nhân