"What the Hell" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Avril Lavigne từ album Goodbye Lullaby | ||||
Mặt B | "Alice" | |||
Phát hành | 10 tháng 1 năm 2011 | |||
Thu âm | 2010; Maratone Studios (Stockholm, Thụy Điển) | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 3:39 | |||
Hãng đĩa | RCA | |||
Sáng tác |
| |||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự đĩa đơn của Avril Lavigne | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"What The Hell" trên YouTube |
"What the Hell" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Canada Avril Lavigne nằm trong album phòng thu thứ tư của cô, Goodbye Lullaby (2011). Nó được phát hành như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album vào ngày 10 tháng 1 năm 2011 bởi RCA Records. Bài hát được sản xuất bởi Max Martin và Shellback, những người đồng viết lời bài hát với Lavigne. Đây là một bản synth-pop và pop punk với nội dung theo miêu tả của nữ ca sĩ là "một thông điệp cá nhân về sự tự do".
Sau khi phát hành, "What the Hell" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai của bài hát và so sánh nó với đĩa đơn năm 2007 rất thành công của cô là "Girlfriend". Bài hát cũng gặt hái nhiều thành công về mặt thương mại, đứng đầu bảng xếp hạng quốc tế ở Hàn Quốc và lọt vào top 10 ở nhiều thị trường lớn như Úc, Brazil, Canada, Nhật Bản và New Zealand. Tại Hoa Kỳ, "What the Hell" đạt vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn top 20 thứ bảy của Lavigne tại đây, và đã đạt được hơn 2.1 triệu lượt tải nhạc số tính đến năm 2014 (tính riêng tại Hoa Kỳ).[1]
Video ca nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Marcus Raboy, trong đó Lavigne và người yêu của cô rượt đuổi qua nhiều địa điểm khác nhau. Nó đã nhận được nhiều lời tán dương từ giới phê bình, mặc dù vấp phải nhiều ý kiến tiêu cực về việc xuất hiện quá nhiều sản phẩm quảng cáo. Trước khi chính thức phát hành, Lavigne đã trình diễn nó trong chương trình đêm giao thừa Dick Clark's New Year's Rockin' Eve. Ngoài ra, cô cũng trình diễn "What the Hell" trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải, như The View, Jimmy Kimmel Live!, The Tonight Show with Jay Leno, Britain's Got Talent và Giải Video của MuchMusic. Bài hát cũng xuất hiện trong danh sách trình diễn của tất cả những chuyến lưu diễn trong sự nghiệp của cô kể từ khi phát hành, như The Black Star Tour (2011-12) và The Avril Lavigne Tour (2013-14).
|
|
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[44] | 2× Bạch kim | 140.000^ |
Ý (FIMI)[45] | Vàng | 15.000* |
Nhật Bản (RIAJ)[46] | 2× Bạch kim | 0^ |
México (AMPROFON)[47] | Vàng | 30.000* |
New Zealand (RMNZ)[48] | Vàng | 7.500* |
Anh Quốc (BPI)[49] | Bạc | 200.000 |
Hoa Kỳ (RIAA) | — | 2,100,000[1] |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Năm | Tên giải thưởng | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2011 | Giải Video của MuchMusic | Ur Fave Artist (Sự lựa chọn của người hâm mộ) | Đề cử |
Video quốc tế xuất sắc nhất của nghệ sĩ Canada | Đề cử | ||
Giải thưởng âm nhạc MTV Fan | Bài hát của năm | Đoạt giải | |
2012 | Giải thưởng Billboard Nhật Bản | Hit Airplay của năm | Đoạt giải |
Giải thưởng VEVOCertified Awards | 100,000,000 lượt xem | Đoạt giải | |
Giải thưởng BMI | Bài hát Pop xuất sắc nhất | Đoạt giải |
Khu vực | Ngày | Hãng đĩa | Định dạng |
---|---|---|---|
Pháp[50] | 10 tháng 1 năm 2011 | RCA Records | Nhạc số tải về |
México | |||
Hoa Kỳ[51] | 11 tháng 1 năm 2011 | ||
Vương quốc Anh[52] | 16 tháng 1 năm 2011 | ||
Nhật Bản[53] | 2 tháng 2 năm 2011 | Sony Music Japan | CD đĩa đơn |
Đức[54] | 25 tháng 2 năm 2011 | RCA Records |
|ngày=
(trợ giúp)