"Born to Make You Happy" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Britney Spears | ||||
từ album ...Baby One More Time | ||||
Phát hành | 6 tháng 12 năm 1999 (xem lịch sử phát hành) | |||
Thu âm | Tháng 3 – Tháng 4, 1998 | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 4:03 | |||
Hãng đĩa | Jive | |||
Sáng tác | ||||
Sản xuất | Kristian Lundin | |||
Thứ tự đĩa đơn của Britney Spears | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"Born To Make You Happy" trên YouTube |
"Born to Make You Happy" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears nằm trong album phòng thu đầu tay của cô, ...Baby One More Time (1999). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ từ trích từ album ở những quốc gia châu Âu vào ngày 6 tháng 12 năm 1999 bởi Jive Records. Trước khi thu âm bài hát, Spears đã phải yêu cầu những tác giả của nó, Andreas Carlsson và Kristian Lundin để viết lại bài hát cho phù hợp với Spears, người bấy giờ chỉ mới 16 tuổi và chưa đủ lớn để hát những bài hát liên quan đến tình dục. Đây là một bản dance-pop và teen pop, với nội dung ám chỉ đến một mối quan hệ mà một cô gái mong muốn, nhưng không hoàn toàn hiểu biết những gì mình làm đã sai, khi đó cô nhận ra rằng cô "sinh ra để làm cho người yêu hạnh phúc".
Sau khi phát hành, "Born to Make You Happy" nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao chất cổ điển của nó và gọi đây là một đĩa đơn tiềm năng, mặc dù bị cho là mờ nhạt nếu so sánh với những bản ballad khác trong album. Bài hát cũng gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Ireland và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở Bỉ, Phần Lan, Đức, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Mặc dù đạt được nhiều thành tích trên toàn cầu, "Born to Make You Happy" đã không được phát hành ở thị trường Bắc Mỹ.
Video ca nhạc cho "Born to Make You Happy" được đạo diễn bởi Billie Woodruff, trong đó Spears thể hiện mong ước được bên cạnh người yêu của mình, trong khi cô trình diễn nó ở phần lớn video. Để quảng bá bài hát, Spears đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, như Top of The Pops, Rock in Rio năm 2001 cũng như trong bốn chuyến lưu diễn trong sự nghiệp của cô, gần nhất là tại Dream Within a Dream Tour (2001-02). Ngoài ra, nó cũng xuất hiện trong nhiều album tổng hợp của nữ ca sĩ kể từ khi phát hành, bao gồm Greatest Hits: My Prerogative (2004), The Singles Collection (2009) và Oops! I Did It Again: The Best of Britney Spears (2012).
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Pháp (SNEP)[32] | Bạc | 125.000* |
Đức (BVMI)[33] | Vàng | 250.000^ |
Thụy Điển (GLF)[34] | Bạch kim | 30.000^ |
Anh Quốc (BPI)[35] | Bạc | 200.000^ |
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng. |
Nước | Ngày | Định dạng | Nhãn |
---|---|---|---|
Áo | 6 tháng 2 năm 1999[36] | CD | Jive |
Đức | |||
Thuỵ Sĩ | |||
Pháp[37] | 3 tháng 1 năm 2000 | ||
Vương quốc Anh[38] | 17 tháng 1 năm 2000 |