Hươu sừng ngắn gồm những loài hươu có kích thước nhỏ và được tìm thấy ở bán đảo Yucatán ở miền Trung và Nam Mỹ và các đảo Trinidad. Hầu hết các loài chủ yếu được tìm thấy trong rừng. Chúng bề ngoài tương tự như linh dương hoẵng châu Phi và mang châu Á nhưng lại không hề liên quan. Có khoảng mười loài trong nhóm này.
Tên gọi quốc tế của những loài thuộc chi này là brocket deer. Brocket bắt nguồn từ tiền tố chiết tự broc trong tiếng Pháp cổ, có nghĩa là nhánh trên sừng hươu đực.[2][3] Những loài thuộc chi này có sừng ngắn, nhỏ, thẳng, chỉ dài khoảng 10 cm. Vì thế được đặt tên là hươu sừng ngắn.[2][3]
Tùy thuộc vào loài, hươu sừng ngắn để vừa với các cơ quan có màu đen và đôi tai lớn. Chiều dài đầu và cơ thể là khoảng 60–144 cm (24–57 in), chiều cao đến vai là 35–80 cm (14–31 in) và chúng thường nặng 8–48 kg (18-110 lb), mặc dù một số loài lớn có cân nặng lớn như 65 kg (140 lb). Gạc chúng nhỏ, gai đơn giản. Bộ lông thay đổi từ màu đỏ, nâu xám. Loài này có thể được chia thành bốn nhóm dựa trên kích thước, màu sắc và môi trường sống.
Ngoài việc là loài ăn đêm và kích thước nhỏ đồng thời chúng nhút nhát và do đó hiếm khi quan sát được. Chúng được tìm thấy trong tình trạng sống một mình hoặc theo cặp giao phối trong lãnh thổ nhỏ riêng, ranh giới thường được đánh dấu với nước tiểu, phân, hoặc dịch tiết từ các tuyến mắt. Khi chạm trán với động vật ăn thịt (chủ yếu là báo sư tử và báo đốm) chúng sẽ ẩn trong thảm thực vật. Cũng giống như những động vật ăn cỏ khác, chế độ ăn uống của chúng bao gồm lá, hoa quả được tìm thấy trong lãnh thổ của chúng.
Bright, William (2007). Native American Placenames of the United States. University of Oklahoma Press. p. 274. ISBN 0-8061-3598-0.
Nowak, R. M. (eds) (1999). Walker's Mammals of the World. 6th edition. Johns Hopkins University Press.
Grubb, P. (2005). "Order Artiodactyla". In Wilson, D. E.; Reeder, D. M. Mammal Species of the World (3rd ed.). Johns Hopkins University Press. pp. 655–657. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
Rossi, R. V. (2000). Taxonomia de Mazama Rafinesque, 1817 do Brasil (Artiodactyla, Cervidae). M.Sc. Thesis, Universidade de São Paulo.
Rossi, R.V. & Duarte, J.M.B. (2008). Mazama nemorivaga. In: IUCN 2008. IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010..
Van Roosmalen, M., & Pim van Hooft. A new species of living brocket deer (Mammalia: Cervidae) from the Brazilian Amazon. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.
International Commission on Zoological Nomenclature. (2000). International Code of Zoological Nomenclature. 4th edition. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.
Trolle, M., and L. H. Emmons (2004). A record of a dwarf brocket from lowland Madre de Dios, Peru. Deer Specialist Group Newsletter 19: 2-5
Gilbert, C., Ropiquet, A., and Hassanin, A. 2006. Mitochondrial and nuclear phylogenies of Cervidae (Mammalia, Ruminantia): Systematics, morphology, and biogeography. Molecular Phylogenetics and Evolution 40:101-117
Duarte, J. M. B., González, S. and Maldonado, J. E. 2008. The surprising evolutionary history of South American deer. Molecular Phylogenetics and Evolution 49:17-22
Ruiz-García, M., Randi, E., Martínez-Agüero, M. and Alvarez, D. 2007. Phylogenetic relationships among Neotropical deer genera (Artiodactyla: Cervidae) by means of DNAmt sequences and microsatellite markers. Revista de Biología Tropical 55:723-741
Medellín, R. A., A. L. Gardner, J. M. Aranda (1998). The taxonomic status of the Yucatán brown brocket, Mazama pandora (Mammalia: Cervidae). Proceedings of the Biological Society of Washington 111 (1): 1–14.
Vogliotti, A., and J. M. B. Duarte (2009). Discovery of the first wild population of the small red brocket deer Mazama bororo (Artiodactyla: Cervidae). Mastozool. Beotrop. 16(2).
Mâu thuẫn giữa Trung Đông Hồi Giáo, Israel Do Thái giáo và Phương Tây Thiên Chúa Giáo là một mâu thuẫn tính bằng thiên niên kỷ và bao trùm mọi mặt của đời sống