Tuy nhiên, một số sắc tộc Dao lại nói các ngôn ngữ H'Mông (Miêu) và các ngôn ngữ này được gọi là các thứ tiếng Bố Nỗ (Bunu). Một lượng nhỏ người Dao tại huyện tự trị Dao tộc Kim Tú (金秀瑶族自治县) ở miền đông Quảng Tây nói thứ tiếng Tai-Kadai gọi là tiếng Lạp Già (Lakkia). Một số nhóm sắc tộc Dao khác nói các biến thể khác nhau của tiếng Hán (tiếng Trung).
Strecker (1987),[3] được Matisoff (2001) tuân theo (với sự bổ sung tiếng Mạc Tây (Moxi)), đề xuất phân loại sau, với một số biến thể rẽ nhánh xa hơn được coi là các ngôn ngữ bổ sung:
Mao Tông Vũ (2004) phân loại các phương ngữ của ngữ chi Miền tại Trung Quốc như sau. Các điểm lấy dữ liệu trong Mao (2004) cũng được liệt kê cho mỗi phương ngữ.[5]
Miền (勉): 550.000 người. Tại Việt Nam gọi là tiếng Dìu Miền.
Phương ngữ Quảng Điền (广滇): 400.000 người.
Xóm Đại Bình Giang (大坪江屯), thôn Kiến Tân (建新村), hương Giang Để (江底乡), huyện Long Thắng (龙胜县).
Thôn Thạch Lộng Cước (石弄脚村), hương Đại Tiểu Hà (大小河乡), huyện Quán Dương (灌阳县).
Xóm Tiên Gia Tào (仙家槽屯), thôn Lục Định (六定村), hương Tam Giác (三角乡), huyện Kim Tú (金秀县).
Thôn Đại Bình (大坪村), hương Đại Bình (大坪乡), huyện Liên Nam (连南县).
Một biến thể tiếng Miền gọi là bjau2 mwan2 ("Tiêu Mạn, 标曼"), có liên quan tới tiếng Miền Trường Bình và La Hương, được nói tại Lục Xung (六冲), hương Kiều Đình (桥亭乡), huyện Bình Lạc (平乐县), tỉnh Quảng Tây (Tang, 1994); một phương ngữ"Tiêu Mạn 标曼"khác được nói tại Đông Bình Động (东坪洞) (Tang, 1994).[6] Có khoảng 10.000 người nói tại các huyện Mông Sơn, Lệ Phố, Bình Lạc và Chiêu Bình.
Biểu đồ từ vựng so sánh trong Mao Tông Vũ (2004) bao gồm các ngôn ngữ sau.
Miền Quảng Điền (Giang Để); tên tự gọi: mjen31
Kim Môn Điền Quế (Lương Tử); tên tự gọi: kjeːm33 mun33
Tiêu Mẫn Đông Sơn; tên tự gọi: bjau31 min31
Tảo Mẫn Đại Bình; tên tự gọi: dzau53 min53
Miền Tương Nam (Miếu Tử Nguyên); tên tự gọi: mjəŋ31
Miễn Trường Bình (= Tiêu Mạn); tên tự gọi: bjau31 moːn31
Miền La Hương; tên tự gọi: bjau31 mwan31
Kim Môn Phòng Hải (Than Tán); tên tự gọi: kiːm33 mun33
Tiêu Mẫn Thạch Khẩu (= Giao Công Miễn, Mạc Nhược); tên tự gọi: mɔu31 jɔu55
Tiêu Mẫn Ngưu Vĩ Trại (= Mạc Tây); tên tự gọi: mɔ433 ɕi53
Sử dụng các dữ liệu mới của Mao (2004), Aumann & Sidwell (2004) đề xuất phân loại sau đây về các ngôn ngữ Miền, dựa theo các cách tân trong các phụ âm r.[7] Phân loại này trình bày sự phân chia hai nhánh của các ngôn ngữ Miền, với phân nhóm thứ nhất bao gồm Ưu Miền và Tiêu Mẫn, và phân nhóm thứ hai bao gồm Kim Môn và Tảo Mẫn. La Hương được gộp với Kim Môn, trong khi Trường Bình gộp cùng Tảo Mẫn.
Aumann & Sidwell (2004) cho rằng phân loại dưới đây của Wang & Mao là không thể, là phân loại dựa theo âm phát ra của các hưởng âm câm, một đặc trưng vùng chung.
Hsiu (2018) cho rằng tiếng Miền Trường Bình chịu ảnh hưởng của các biến thể tiếng Kim Môn do cận kề địa lý, mặc dù nó vẫn duy trì nhiều hình thái độc nhất vô nhị, chỉ ra rằng nó nên được xếp riêng trong nhánh của chính nó.
Thổ ngữ Thiều Châu, một ngôn ngữ nữ thư, là một biến thể không phân loại của tiếng Trung được người Dao bản địa nói. Nguồn gốc của nó là mơ hồ, nhưng có thể nó đã bắt đầu như là tiếng Miền được Hán hóa.[10]
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Mienic”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
^ abRatliff Martha. 2010. Hmong–Mien language history. Canberra, Australia: Pacific Linguistics.
^Strecker David. 1987."The Hmong-Mien Languages"trong Linguistics of the Tibeto-Burman Area 10(2): 1-11.
^Mao Tông Vũ (毛宗武) 2004. A study of Mien dialects [Dao tộc Miễn ngữ phương ngôn nghiên cứu 瑤族勉语方言研究]. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Dân tộc (民族出版社).
^Đường Vĩnh Lượng (唐永亮). 1994. Dao tộc Miễn ngữ Lục Xung Tiêu Mạn thoại ngữ âm đặc điểm hòa thanh điệu thực nghiệm nghiên cứu (瑶族勉语六冲标曼话语音特点和声调实验研究). Minzu Yuwen 1994:5.
^Aumann Greg & Paul Sidwell. 2004."Subgrouping of Mienic Languages: Some Observations"trong Papers from the Eleventh Annual Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, Somsonge Burusphat biên tập. Tempe, Arizona, 13-27. Arizona State University, Program for Southeast Asian Studies.
Các nguồn với danh sách từ vựng của các ngôn ngữ Miền
Đoàn Thiện Thuật; Mai Ngọc Chừ. 1992. Tiếng Dao. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Duan Shanshu [段善述]; Mei Yuzhu [梅玉诸]; Pan Meihua [盘美花] (chủ biên). 2013. Yao languages of Vietnam [越南瑶语]. Beijing: Ethnic Publishing House [民族出版社]. ISBN9787105128228
Liu Hongyong [刘鸿勇] (2016). Yuebei Ruyuan Guoshan Yao Mianyu yanjiu [粤北乳源过山瑶勉语研究]. Beijing: Wenhua yishu chubanshe [文化艺术出版社].
Phan Hữu Dật & Hoàng Hoa Toàn. 1998."Về vấn đề xác minh tên gọi và phân loại các ngành Dao Tuyên Quang"trong Phan Hữu Dật (chủ biên). Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, tr. 483-567. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. [Comparative word list of 9 Dao dialects in Tuyen Quang Province, trang 524-545]
Sun Yelin [孙叶林] (2013). Xiangnan Yaoyu he Hanyu fangyan de jiechu yu yingxiang yanjiu: yi Hengyang Changning Tashan Yaozuxiang wei ge an 湘南瑶语和汉语方言的接触与影响研究——以衡阳常宁塔山瑶族乡为个案.
Tan Xiaoping [谭晓平]. (2012). Yuyan jiechu yu yuyan yanbian: Xiangnan Yaozu Jiangyong Mianyu ge an yanjiu 语言接触与语言演变——湘南瑶族江永勉语个案研究. Wuhan: Huazhong Normal University Publishing House 华中师范大学出版社.
Trong truyền thuyết trò chơi YGGDRASIL, Cây Thế giới từng được bao phủ bởi vô số chiếc lá, nhưng một ngày nọ, một con quái vật khổng lồ xuất hiện và ăn tươi nuốt sống những chiếc lá này
Trong một ngôi nhà đồn rằng có phù thủy sinh sống đang có hai người, đó là Aoko Aozaki đang ở thời kỳ tập sự trở thành một thuật sư và người hướng dẫn cô là một phù thủy trẻ tên Alice Kuonji
Hiện tại thì cả tên cung mệnh lẫn tên banner của Kaveh đều có liên quan đến thiên đường/bầu trời, tên banner lão là 天穹の鏡 (Thiên Khung chi Kính), bản Việt là Lăng kính vòm trời, bản Anh là Empryean Reflection (Heavenly reflection