Nikola Žigić

Nikola Žigić
Никола Жигић
Nikola Žigić trong màu áo Birmingham City năm 2012
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Nikola Žigić[1]
Ngày sinh 25 tháng 9, 1980 (44 tuổi)
Nơi sinh Bačka Topola, Nam Tư
Chiều cao 2,02 m (6 ft 7+12 in)[2]
Vị trí Tiền đạo
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1991–1998 AIK Bačka Topola
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1998–2001 AIK Bačka Topola 76 (68)
2001–2002 Mornar 23 (15)
2002 Kolubara 8 (3)
2003–2006 Sao Đỏ Beograd 79 (47)
2003Spartak Subotica (mượn) 11 (14)
2006–2007 Racing Santander 32 (11)
2007–2010 Valencia 28 (5)
2009Racing Santander (mượn) 19 (13)
2010–2014 Birmingham City 128 (32)
2014–2015 Birmingham City 9 (0)
Tổng cộng 413 (208)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2004–2011 Serbia 57 (20)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Nikola Žigić (tiếng Kirin Serbia: Никола Жигић, IPA: [nǐkola ʒǐːɡitɕ]; sinh ngày 25 tháng 9 năm 1980) là một cựu cầu thủ bóng đá Serbia thi đấu ở vị trí tiền đạo.

Žigić bắt đầu chơi bóng ở AIK Bačka Topola, ghi 68 bàn trong 76 trận tại câu lạc bộ hạng ba Nam Tư. Anh tới Bar thực hiện nghĩa vụ quân sự năm 2001 và thi đấu cho Mornar. Anh chuyển tới Sao Đỏ Beograd vào tháng 1 năm 2003. Mặc dù chiều cao 2,02m được cho là có lợi trong một số môn thể khác hơn là bóng đá, Žigić kết thúc mùa giải 2004-05 của Giải hạng nhất Serbia và Montenegro với các thành tích: vua phá lưới,[3] cầu thủ nội của năm,[4][5] vô địch quốc gia và ghi bàn trong trận chung kết Cúp quốc gia. Anh giành cú đúp thứ hai vào mùa 2005–06, tiếp tục là cầu thủ xuất sắc mùa giải, có 70 bàn trong 109 trận trên mọi đấu trường sau ba mùa giải ở Sao Đỏ.[2]

Vào năm 2006, Žigić chuyển tới Racing Santander của Tây Ban Nha; các bàn thắng của anh và sự kết hợp ăn ý với Pedro Munitis giúp đội bóng trụ hạng an toàn ở La Liga. Sau đó anh chuyển sang Valencia, nhưng không thể cạnh tranh suất trong đội hình chính. Tại lượt về mùa giải La Liga 2008-09 anh trở lại Racing theo dạng cho mượn, ghi 13 bàn trong 19 trận. Žigić gia nhập Birmingham City của Anh năm 2010 và ghi bàn giúp đội nhà vô địch League Cup. Mặc dù đội bóng phải xuống chơi ở Championship, anh ở lại Birmingham cho tới khi kết thúc hợp đồng. Sau khi không tìm được bến đỗ mới, anh trở lại Birmingham ở giai đoạn lượt về mùa 2014–15.

Žigić có trận ra mắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia và Montenegro vào năm 2004, và sau khi Serbia và Montenegro tan rã năm 2006, anh thi đấu cho đội tuyển Serbia cho tới năm 2011. Anh có 57 trận đấu quốc tế và ghi 20 bàn. Anh tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2006Giải vô địch bóng đá thế giới 2010, từng làm đội trưởng vào năm 2011.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Sao Đỏ Belgrade

[sửa | sửa mã nguồn]

Žigić sinh ra tại Bačka Topola, Nam Tư. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu tại một câu lạc bộ địa phương. Với một hiệu suất ghi bàn đáng nể, sau đó anh đã chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ Sao Đỏ Belgrade năm 2003. Tại đây, anh đã thi đấu 110 trận và ghi 71 bàn thắng trên mọi đấu trường (cúp quốc gia, giải trong nước và cúp châu Âu). Anh đã từng 3 lần được bầu chọn danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất Serbia khi còn thi đấu cho Sao Đỏ Belgrade.

Racing Santander và Valencia

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 29 tháng 8 năm 2006, Žigić đã ký vào bản hợp đồng có thời hạn 4 năm với câu lạc bộ Tây Ban Nha Racing de Santander. Ngày 25 tháng 9, anh lập cú đúp đầu tiên cho Racing trong trận hoà 2-2 với Nastic.[6] Ngày 1 tháng 4 năm 2007, anh lập một hat-trick trong chiến thắng 5-4 của Racing trước Athletic Bilbao.[7] Trong mùa giải này tại Racing, anh đã có 11 bàn thắng và 5 đường chuyền thành bàn.

Ngày 9 tháng 8 năm 2007, Zigic đã trở thành cầu thủ của Valencia với bản hợp đồng có thời hạn 5 năm. Valencia đã phải trả cho Racing Santander 15 triệu euro (khoảng 20 triệu USD).

Bàn thắng đầu tiên của Žigić cho Valencia là cú đúp vào lưới Real Unión tại Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, giúp Valencia thắng 2–1. Vài ngày sau, khi được tung vào sân ở đầu hiệp 2 trận đấu gặp Real Zaragoza, anh đã ghi bàn rút ngắn tỉ số trận đấu xuống còn 2-1 trước khi David Silva gỡ hoà 2-2 cho Valencia. Tuy nhiên, anh đã không được huấn luyện viên người Hà Lan Ronald Koeman trọng dụng. Tháng 1 năm 2008, anh đã từ chối cơ hội đến Anh thi đấu cho Portsmouth theo hợp đồng cho mượn trong giai đoạn còn lại của mùa giải.[8]

Sau khi cân nhắc một số lời mời thi đấu tại Premier League[9][10] và cả lời đề nghị trở lại Racing Santander theo hợp đồng cho mượn, Žigić cuối cùng đã quyết định ở lại Valencia để giành một vị trí chính thức trong mùa giải 2008–09. Tuy nhiên, sau khi không được ra sân bất kì một trận nào tại giải La Liga, trong khi chỉ ra sân hạn chế ở cúp quốc gia và cúp UEFA, cuối tháng 12 năm 2008, anh đã trở lại câu lạc bộ cũ Racing Santander theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải.[11][12]

Ngày 4 tháng 1 năm 2009, ngay trong trận đầu tiên trở lại với đội bóng xứ Cantabria, Žigić đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Real Valladolid, và sau đó là Getafe, đem về 6/7 điểm trong 3 trận của Racing. Ngày 25 tháng 1, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2-0 trước Sevilla FC[13] và sau đó 1 tuần là bàn mở tỉ số trong trận thua 1-2 trước Barcelona. Anh kết thúc mùa giải với 13 bàn trong 19 trận.

Mùa giải 2009-10, Zigic đã trở lại Valencia và tiếp tục không được trọng dụng. Tháng 11 năm 2009, anh ghi bàn gỡ hoà 2-2 trong trận đấu tại lượt về vòng 4 Cúp Nhà vua Tây Ban Nha với CD Alcoyano giúp Valencia lọt vào vòng 5.[14] Trong lần hiếm hoi được ra sân ngay trong trận đấu đầu năm 2010, anh đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với RCD Espanyol ở phút 92. Sau đó vào ngày 14 tháng 1, anh lập được cú đúp trong trận hoà 2-2 với Deportivo de La Coruña tại Cúp Nhà vua Tây Ban Nha nhưng đội bóng của anh cuối cùng đã bị loại.

Zigic bị đuổi khỏi sân trong trận thua Real Zaragoza 3-0 ngày 27 tháng 3. Ngày 1 tháng 5, anh lập được cú đúp trong chiến thắng 2-0 trước Espanyol, giúp Valencia chắc chắn vào thẳng vòng bảng UEFA Champions League mùa bóng 2010-11.

Birmingham City

[sửa | sửa mã nguồn]
Žigić trong màu áo Birmingham năm 2010

Ngày 26 tháng 5 năm 2010, Žigić đã ký vào bản hợp đồng có thời hạn 4 năm với câu lạc bộ tại Premier League là Birmingham City cùng phí chuyển nhượng không được tiết lộ.[15] Tuy nhiên, một số nguồn tin cho biết phí chuyển nhượng của anh là 6 triệu £.[16] Anh có trận đấu đầu tiên tại Premier League khi vào sân ở hiệp 2 trong trận hoà 2-2 với Sunderland ngày 14 tháng 8.[17]

Bàn thắng đầu tiên của Žigić cho Birmingham đến trong chiến thắng 3-1 của Birmingham trước MK Dons tại League Cup ngày 21 tháng 9.[18] Còn bàn thắng đầu tiên của anh tại Premier League là trong trận thua 1-2 trước Arsenal ngày 16 tháng 10.[19] Một tuần sau, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2-0 trước Blackpool.[20] Bàn thắng thứ tư của anh trong mùa giải là bàn ấn định chiến thắng 2-1 trước Aston Villa tại tứ kết League Cup.[21] Ngày 27 tháng 2 năm 2011, trong trận chung kết League Cup với Arsenal tại Wembley, Žigić đã ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng chung cuộc 2-1 của Birmingham, mang về danh hiệu thứ hai trong lịch sử cho câu lạc bộ này.[22] Tuy nhiên cuối mùa giải năm đó Birmingham đã phải xuống hạng.

Bàn thắng đầu tiên của Žigić tại Giải bóng đá Hạng nhất Anh đến trong chiến thắng 1-0 trước Leeds United vào tháng 10 năm 2011.[23] Trong trận lượt về với Leeds vào tháng 1 năm 2012, Žigić ghi bốn bàn thắng giúp Birmingham thắng ngược 4–1 sau khi bị dẫn trước 1-0.[24]

Anh bắt đầu mùa giải 2012–13 với bàn thắng ở ohút bù giờ thứ 4 giúp Birmingham cầm hòa được Charlton Athletic.[25] Ngày 15 tháng 2 năm 2013, huấn luyện viên Birmingham Lee Clark chỉ trích công khai Žigić vì thái độ tập luyện thiếu nghiêm túc.[26] Sau sự việc đó, Clark đã không sử dụng nhiều Žigić cho vị trí chính thức. Thời điểm đó, anh đã có 6 bàn trong mùa và bị đuổi khỏi sân hai lần.[27] Sau đó, Zigic đáp lại chỉ trích bằng hai bàn thắng đem lại chiến thắng cho Birmingham trước Peterborough và Middlesbrough.

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Trận đấu đầu tiên của Žigić cho đội tuyển Serbia và Montenegro là trận đấu với Na Uy vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, dưới thời huấn luyện viên Ilija Petković.[28] Bàn thắng đầu tiên của anh cho đội tuyển đến trong trận giao hữu với Ý tại Toronto, Canada tháng 6 năm 2005.[29]

Mặc dù gây ấn tượng nhờ phong độ cao trong màu áo Sao Đỏ Belgrade, Žigić chỉ bắt đầu xuất hiện trong đội chính thức đội tuyển từ giữa năm 2005. Tại trận đấu với Tây Ban Nha vào tháng 9 năm 2005 trong khuôn khổ vòng loại World Cup 2006, vào sân từ băng ghế dự bị, anh đã góp công trong bàn thắng gỡ hoà 1-1. Trong trận đấu cuối cùng tại vòng loại với Bosnia và Herzegovina, Žigić đã đánh đầu chuyền bóng chính xác cho người đồng đội Mateja Kežman ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu, giúp đội tuyển Serbia và Montenegro chính thức có mặt tại World Cup 2006.[30]

Tại World Cup 2006, Žigić ghi được một bàn thắng trong trận đấu cuối cùng tại vòng bảng với Côte d'Ivoire.[31] Tuy nhiên, đội bóng của anh đã để thua 3-2 trong trận này và rời giải với 3 trận toàn thua.

Ngày 24 tháng 3 năm 2007, Žigić đã bị thẻ đỏ trong trận đấu tại vòng loại Euro 2008 với Kazakhstan, khiến anh phải vắng mặt trong trận đấu tiếp theo với Bồ Đào Nha (trong trận đấu với Phần Lan sau đó vào ngày 2 tháng 6 năm 2007, anh cũng không thể thi đấu vì phải phẫu thuật).[32] Tại vòng loại Euro 2008, Žigić đã có 7 bàn thắng nhưng Serbia chỉ đứng vị trí thứ ba và không thể tham dự Euro 2008.

Tại vòng loại World Cup 2010, anh đã ghi được 3 bàn thắng trong đó có bàn thắng mở tỉ số trong chiến thắng 5-0 trước Romania, chiến thắng đã chính thức đưa Serbia có mặt tại World Cup 2010.[33] Žigić sau đó đã được huấn luyện vien Radomir Antić chọn vào danh sách 23 cầu thủ Serbia tham dự World Cup 2010.[34] Anh cũng chính là cầu thủ cao nhất tại giải đấu với chiều cao 2,02 m của mình.[35]

Tại World Cup 2010, Žigić đã ra sân đầy đủ trong cả ba trận vòng bảng nhưng không ghi được bàn thắng nào. Trong trận đấu thứ hai với Đức, anh đã có pha bật cao đánh đầu chuyền vào giữa cho Milan Jovanović ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.[36] Serbia đã bị loại sau khi để thua Úc 2-1 ở lượt trận cuối cùng vòng bảng.

Žigić có bàn thắng đầu tiên tại vòng loại Euro 2012 khi ghi bàn ấn định chiến thắng 3-0 của Serbia trước quần đảo Faroe ngày 2 tháng 9 năm 2010.[37] 4 ngày sau, anh có bàn thắng ấn định tỉ số 1-1 ở phút 86 trong trận đấu với Slovenia.[38]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Birmingham City

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cầu thủ Serbia xuất sắc nhất năm: 2003, 2005, 2006
  • Vua phá lưới giải Ngoại hạng Serbia 2003-04

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Cập nhật: 24 tháng 8 năm 2010
Thành tích cấp CLB Giải vô địch Cúp quốc gia Cúp liên đoànCúp châu lục Tổng cộng
Mùa giảiCLBGiải vô địch TrậnBànTrậnBàn TrậnBàn TrậnBàn TrậnBàn
Serbia Giải vô địchSerbian Cup League Cup Châu Âu Tổng cộng
2003–04 Sao Đỏ Belgrade Prva Liga 28 18 ? 2 5 6 33 26
2004–05 25 15 ? 2 5 3 30 20
2005–06 Super Liga 23 11 ? 2 7 5 30 18
2006–07 3 2 0 0 4 2 7 4
Tây Ban Nha Giải vô địchCopa del Rey Copa de la Liga Châu Âu Tổng cộng
2006–07 Racing de Santander La Liga 32 11 0 0 0 0 32 11
2007–08 Valencia CF 15 1 1 1 2 0 18 2
2008–09 0 0 1 1 3 2 4 3
Racing de Santander (mượn) 19 13 0 0 0 0 19 13
2009–10 Valencia CF 13 4 4 3 7 2 24 9
Anh Giải vô địchCúp FA Cúp Liên đoàn Châu Âu Tổng cộng
2010–11 Birmingham City F.C. Premier League 14 2 0 0 4 2 0 0 18 4
Tổng cộng Serbia 197 147 ? 6 21 16 218 169
Tây Ban Nha 79 29 6 5 12 4 97 38
Anh 14 2 0 0 4 2 0 0 18 4
Tổng cộng sự nghiệp 290 178 6 11 4 2 33 20 333 211

Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là danh sách bàn thắng Nikola Žigić ghi được cho đội tuyển Serbia (bao gồm cả thời gian còn mang tên Serbia và Montenegro.[39]

# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 8 tháng 6 năm 2005 Trung tâm Rogers, Toronto, Canada  Ý 1–0 1–1 Giao hữu
2. 15 tháng 8 năm 2005 Sân vận động Lobanovsky Dynamo, Kiev, Ukraina  Ba Lan 1–1 3–2 Giao hữu
3. 13 tháng 11 năm 2005 Sân vận động Wutaisha, Nam Kinh, Trung Quốc  Trung Quốc 0–2 0–2 Giao hữu
4. 21 tháng 6 năm 2006 Allianz Arena, Munich, Đức  Bờ Biển Ngà 0–1 2–3 World Cup 2006
5. 2 tháng 9 năm 2006 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Azerbaijan 1–0 1–0 Vòng loại Euro 2008
6. 7 tháng 10 năm 2006 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Bỉ 1–0 1–0 Vòng loại Euro 2008
7. 11 tháng 10 năm 2006 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Armenia 3–0 3–0 Vòng loại Euro 2008
8. 24 tháng 9 năm 2007 Sân vận động Almaty Central, Almaty, Kazakhstan  Kazakhstan 2–1 2–1 Vòng loại Euro 2008
9. 17 tháng 10 năm 2007 Sân vận động Tofik Bakhramov, Baku, Azerbaijan  Azerbaijan 0–2 1–6 Vòng loại Euro 2008
10. 17 tháng 10 năm 2007 Sân vận động Tofik Bakhramov, Baku, Azerbaijan  Azerbaijan 1–4 1–6 Vòng loại Euro 2008
11. 21 tháng 11 năm 2007 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Ba Lan 1–2 2–2 Vòng loại Euro 2008
12. 6 tháng 9 năm 2008 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Quần đảo Faroe 2–0 2–0 Vòng loại World Cup 2010
13. 11 tháng 10 năm 2008 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Litva 3–0 3–0 Vòng loại World Cup 2010
14. 1 tháng 4 năm 2009 Stadion Partizan, Beograd, Serbia  Thụy Điển 1–0 2–0 Giao hữu
15. 10 tháng 10 năm 2009 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  România 1–0 5–0 Vòng loại World Cup 2010
16. 18 tháng 11 năm 2009 Craven Cottage, London, Anh  Hàn Quốc 0–1 0–1 Giao hữu
17. 3 tháng 9 năm 2010 Tórsvøllur, Tórshavn, Faroe Islands  Quần đảo Faroe 0–3 0–3 Vòng loại Euro 2012
18. 7 tháng 9 năm 2010 Stadion Crvena Zvezda, Beograd, Serbia  Slovenia 1–1 1–1 Vòng loại Euro 2012
19. 8 tháng 10 năm 2010 Stadion Partizan, Beograd, Serbia  Estonia 1–0 1–3 Vòng loại Euro 2012
20. 17 tháng 11 năm 2010 Sân vận động Quốc gia Vasil Levski, Sofia, Bulgaria  Bulgaria 0–1 0–1 Giao hữu

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Premier League clubs submit squad lists” (PDF). Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. ngày 1 tháng 9 năm 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2015.
  2. ^ a b “Žigić Nikola”. reprezentacija.rs (bằng tiếng Serbia). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2013.
  3. ^ “Lista strelaca posle 30. kola” [Top scorers after 30 rounds] (bằng tiếng Serbia). Zajednica fudbalskih klubova prve savezne lige. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2004.
  4. ^ Tomković, V. (ngày 20 tháng 12 năm 2013). “Tradicionalna anketa 'Novosti': Kapiteni biraju fudbalera godine” ["Novosti"'s traditional poll: Footballer of the year voted for by the captains]. Večernje novosti (bằng tiếng Serbia). Beograd. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2015.
  5. ^ “Matić, Ćurčić i Mažić – najbolje u srpskom fudbalu” [Matić, Ćurčić và Mažić – tuyệt với nhất của bóng đá Serbia]. Mondo.rs (bằng tiếng Serbia). ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  6. ^ Thuỳ Dương (ngày 25 tháng 9 năm 2006). “Barca và Valencia cùng đứt mạch toàn thắng ở Nou Camp”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.
  7. ^ Žigić hat-trick earns Racing 5-4 win over Bilbao; Reuters, 1 tháng 4 năm 2007
  8. ^ Valencia keen on Zigic stay; Sky Sports, 30 tháng 12 năm 2007
  9. ^ O'Neill denies interest in Zigic; BBC Sport, 22 tháng 7 năm 2008
  10. ^ Blackburn weigh up double swoop; BBC Sport, 19 tháng 8 năm 2008
  11. ^ Nicola Zigic cayó en la red (Nikola Žigić fell in the net) Lưu trữ 2012-03-09 tại Wayback Machine; El Diario Montanés, 30 tháng 12 năm 2008 (tiếng Tây Ban Nha)
  12. ^ Žigić heads back to Racing on loan; UEFA.com, 30 tháng 12 năm 2008
  13. ^ “Raul sinks Deportivo”. FIFA. ngày 26 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2010.
  14. ^ Song Ngư (ngày 11 tháng 11 năm 2009). “Real chia tay sớm Cúp nhà Vua Tây Ban Nha”. VietNamNet. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2010.
  15. ^ “Birmingham seal signing of giant striker Nikola Zigic”. BBC Sport. ngày 26 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2010.
  16. ^ Lansley, Peter (ngày 27 tháng 5 năm 2010). “Alex McLeish planning big things after £6m signing of giant Nikola Zigic”. The Times. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2010.
  17. ^ “McLeish - Zigic can do more”. Sky Sports. ngày 15 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.
  18. ^ “Birmingham 3–1 MK Dons”. BBC Sport. ngày 22 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2010.
  19. ^ Hoàng Hiệp (ngày 16 tháng 10 năm 2010). “Chamakh tỏa sáng, Arsenal ngược dòng đả bại Birmingham”. Dân Trí. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2010.
  20. ^ “Chi tiết trận đấu Birmingham City-Blackpool”. Birmingham City. ngày 23 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010.
  21. ^ McNulty, Phil (ngày 1 tháng 12 năm 2010). “Birmingham 2–1 Aston Villa”. BBC Sport. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010.
  22. ^ Hải Đăng (ngày 28 tháng 2 năm 2011). “Thua phút cuối, Arsenal nối dài "cơn khát" danh hiệu”. Dân Trí. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2011.
  23. ^ “Birmingham 1–0 Leeds”. BBC Sport. ngày 26 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011.
  24. ^ “Leeds 1–4 Birmingham”. BBC Sport. ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
  25. ^ “Birmingham 1–1 Charlton”. BBC Sport. ngày 18 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.
  26. ^ “Nikola Zigic dropped by Birmingham after 'worst training session ever'. guardian.co.uk. Press Association. ngày 15 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2013.
  27. ^ “N. Žigić”. Soccerway. Global Sports Media. ngày 15 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2013.
  28. ^ “Thông tin về Nikola Zigic trên trang web World Cup 2010”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  29. ^ JOHN F. MOLINARO (ngày 9 tháng 6 năm 2005). “Soccer friendly in Toronto ends in stalemate”. Cbcsport.ca. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  30. ^ Thành Vinh (ngày 13 tháng 10 năm 2005). “Pháp, Thụy Điển, Serbia & Montenegro giành vé, Nga bị loại”. VietNamNet. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  31. ^ Ivorian comeback shocks Serbians; UEFA.com
  32. ^ Serbia's Žigić to miss Euro 2008 qualifier in Finland; Reuters, 28 tháng 5 năm 2007
  33. ^ A.HÀO - T.VĨ. “Đức, Ý, Serbia và Đan Mạch đoạt vé đến Nam Phi”. Tuổi Trẻ Online. 2009-10-11. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2010.[liên kết hỏng]
  34. ^ TD (ngày 30 tháng 5 năm 2010). “Anh tài World Cup 2010: Serbia”. TinTheThao.com.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2010.
  35. ^ Doãn Mạnh (ngày 10 tháng 6 năm 2010). “11 điều có thể bạn chưa biết về World Cup 2010”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2010.
  36. ^ “Đức - Serbia 0-1: Tai họa từ Klose”. Tuổi Trẻ Online. ngày 18 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2010.
  37. ^ “Zigic rounds off easy win”. ESPN Soccernet. ngày 2 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2010.
  38. ^ “Zigic hits late leveller for Serbia”. ESPN Soccernet. ngày 8 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.
  39. ^ “Nikola Zigic profile at reprezentacija.rs”. reprezentacija.rs.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Mao Trạch Đông - Mặt trời đỏ của nhân dân Trung Quốc (P.1)
Mao Trạch Đông - Mặt trời đỏ của nhân dân Trung Quốc (P.1)
Trên cao có một mặt trời tỏa sáng, và trong trái tim mỗi người dân Trung Quốc cũng có một mặt trời không kém phần rực đỏ - Mao Trạch Đông
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Về nội dung, bộ phim xoay quanh nhân vật chính là Suzu- một nữ sinh trung học mồ côi mẹ, sống cùng với ba tại một vùng thôn quê Nhật Bản
Nhân vật Suzune Horikita - Classroom of the Elite
Nhân vật Suzune Horikita - Classroom of the Elite
Nếu mình không thể làm gì, thì cứ đà này mình sẽ kéo cả lớp D liên lụy mất... Những kẻ mà mình xem là không cùng đẳng cấp và vô giá trị... Đến khi có chuyện thì mình không chỉ vô dụng mà lại còn dùng bạo lực ra giải quyết. Thật là ngớ ngẩn...
Cẩm nang để một mình - đừng cố để có một người bạn
Cẩm nang để một mình - đừng cố để có một người bạn
Tôi đã từng là một người cực kì hướng ngoại. Đối với thế giới xung quanh, tôi cảm thấy đơn độc đến vô vàn