Roi hoa trắng

Roi hoa trắng
Phân loại khoa học edit
Giới: Plantae
nhánh: Tracheophyta
nhánh: Angiospermae
nhánh: Eudicots
nhánh: Rosids
Bộ: Myrtales
Họ: Myrtaceae
Chi: Syzygium
Loài:
S. samarangense
Danh pháp hai phần
Syzygium samarangense
(Blume) Merr. & L.M.Perry[2]
Các đồng nghĩa[2]
  • Myrtus samarangensis Blume
  • Jambosa samarangensis (Blume) DC.
  • Eugenia samarangensis (Blume) O.Berg
  • Myrtus obtusissima Blume
  • Jambosa obtusissima (Blume) DC.
  • Eugenia alba Roxb.
  • Jambosa alba (Roxb.) G.Don
  • Jambosa ambigua Blume
  • Jambosa timorensis Blume
  • Eugenia mindanaensis C.B.Rob.

Roi hoa trắng, hay còn gọi là mận chuông, mận trắng, bòng bòng, mận hồng đào (Syzygium samarangense) là một loài thực vật có hoa trong họ Đào kim nương, có nguồn gốc từ một khu vực bao gồm Quần đảo Sunda Lớn, Bán đảo Mã LaiQuần đảo Andaman và Nicobar, nhưng được du nhập dưới thời tiền sử vào một khu vực rộng lớn hơn [3] và hiện được trồng rộng rãi ở vùng nhiệt đới . Các tên phổ biến trong tiếng Anh bao gồm táo sáp,[3] táo Java, táo hồng Semarangjambu sáp .

Roi hoa trắng là một loại cây nhiệt đới mọc cao 12 m (39 ft) , có lá thường xanh dài 10–25 cm (4–10 in) và rộng 5–10 cm (2–4 in). Lá có hình elip, nhưng tròn ở gốc; tỏa hương thơm khi bị nghiền nát. Thân cây tương đối ngắn, có tán rộng – mở ra – bắt đầu ở vị trí thấp trên cây. Vỏ cây có màu xám hồng, dễ bong tróc.[3][4]

Hoa có màu trắng đến trắng vàng, 2,5 cm (1 in), có bốn cánh hoa và nhiều nhị hoa. Chúng tạo thành các chùy có từ 3 đến 30 đầu cành gần nhau. Quả thu được là quả mọng hình chuông, ăn được, với các màu từ trắng, xanh nhạt hoặc xanh lục đến đỏ, tím hoặc đỏ thẫm, đến tím đậm hoặc thậm chí đen. Quả mọc dài 4–6 cm (1,6–2,4 in) trong hoang dã và có bốn thùy đài hoa nhiều thịt ở đầu. Vỏ mỏng, thịt trắng và xốp. Mỗi quả chứa một hoặc hai hạt tròn không lớn hơn 0,8 cm (0,3 in) . Hoa và quả không chỉ giới hạn ở nách lá mà có thể xuất hiện ở hầu hết mọi điểm trên bề mặt thân và cành. Khi trưởng thành, cây khá sai quả, cho tới 700 quả trong một vụ.[3][4]

Khi chín, quả phồng ra ngoài, hơi lõm xuống ở giữa mặt dưới "chuông". Những quả roi khỏe mạnh có màu sáng nhẹ. Khi chín có màu sắc giống quả táo ở bên ngoài. Nó không có vị như táo, không có mùi thơm cũng như độ đậm đặc của táo. Hương vị quả roi tương tự như lê tuyết và tỷ lệ chất lỏng trên thịt quả roi có thể so sánh với dưa hấu . Không giống như táo hoặc dưa hấu, thịt quả roi có đường đan kết rất lỏng lẻo. Chính giữa có một hạt giống được bọc trong một loại lưới giống như kẹo bông. Lưới này có thể ăn được, nhưng không hương vị. Màu sắc của nước ép phụ thuộc vào giống cây trồng; có thể có màu tím đến không màu hoàn toàn.

Thành phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Dinh dưỡng

[sửa | sửa mã nguồn]
Roi hoa trắng
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)
Năng lượng105 kJ (25 kcal)
5.70 g
0.30 g
0.60 g
Vitamin và khoáng chất
VitaminLượng
%DV
Thiamine (B1)
2%
0.020 mg
Riboflavin (B2)
2%
0.030 mg
Niacin (B3)
5%
0.800 mg
Vitamin C
25%
22.3 mg
Chất khoángLượng
%DV
Calci
2%
29 mg
Sắt
0%
0.07 mg
Magiê
1%
5 mg
Phốt pho
1%
8 mg
Kali
4%
123 mg
Natri
0%
0 mg
Kẽm
1%
0.06 mg
Thành phần khácLượng
Cholesterol0 mg

Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[5] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[6]

Công dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số giống có quả lớn hơn đã được tuyển chọn. Nói chung, màu càng nhạt hoặc đậm thì càng ngọt.

Ở Đông Nam Á, những quả màu đen có biệt danh là "Ngọc trai đen" hoặc "Kim cương đen", trong khi những quả có màu trắng xanh nhạt, được gọi là "Ngọc trai", nằm trong số những loại có giá cao nhất trên thị trường trái cây. Quả thường được phục vụ ở dạng nguyên nhưng đã bỏ lõi để giữ nguyên hình dạng chuông độc đáo.

Trong ẩm thực quần đảo Ấn Độ Dương, trái cây thường được sử dụng trong món xà lách cũng như các món áp chảo nhẹ. Món chủ yếu được ăn như trái cây và cũng được dùng để làm dưa chua ( chambakka achar ) .

Philippines, tên địa phương của nó là macopa hoặc makopa (tên cổ trước thời thuộc địa là dambo ).[3] Vì bề ngoài giống nhau nên nó thường bị nhầm lẫn với tambis ( Syzygium aqueum),[7] mặc dù loại sau được trồng phổ biến hơn.

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Botanic Gardens Conservation International (BGCI).; IUCN SSC Global Tree Specialist Group (2018). Syzygium samarangense. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T136144075A136144077. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T136144075A136144077.en. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ a b Syzygium samarangense. World Checklist of Selected Plant Families (WCSP). Royal Botanic Gardens, Kew.
  3. ^ a b c d e Julia F. Morton (1987). “Java apple”. Fruits of Warm Climates. Miami, FL: Florida Flair Books. tr. 381–382. ISBN 978-0-9610184-1-2.
  4. ^ a b “Syzygium samarangense”. Singapore National Parks.
  5. ^ United States Food and Drug Administration (2024). “Daily Value on the Nutrition and Supplement Facts Labels”. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine; Health and Medicine Division; Food and Nutrition Board; Committee to Review the Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium (2019). Oria, Maria; Harrison, Meghan; Stallings, Virginia A. (biên tập). Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium. The National Academies Collection: Reports funded by National Institutes of Health. Washington (DC): National Academies Press (US). ISBN 978-0-309-48834-1. PMID 30844154.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ Janick, Jules; Paull, Robert (2008). The Encyclopedia of Fruits and Nuts. CABI. tr. 552, 553. ISBN 9780851996387.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan