Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năng lượng | 285 kJ (68 kcal) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
14.32 g | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đường | 8.92 g | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chất xơ | 5.4 g | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
0.5 g | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2.55 g | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thành phần khác | Lượng | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lycopene | 5204 µg | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
† Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[1] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[2] |
Ổi (tiếng Anh: guava (/ˈɡwɑːvə/ GWAH-və))[3] là một loại trái cây nhiệt đới phổ biến được trồng ở nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.[4] Ổi thường (Psidium guajava) là loài ổi phổ biến nhất, quen thuộc nhất và được ăn nhiều nhất, thuộc họ Sim (Myrtaceae), có nguồn gốc từ México, Trung Mỹ, Caribe và phía bắc Nam Mỹ.[4] Tên ổi cũng được đặt cho một số loài khác trong chi Psidium như ổi sẻ (Psidium cattleyanum) và ổi dứa (Feijoa sellowiana). Năm 2019, 55 triệu tấn ổi được sản xuất trên toàn thế giới, dẫn đầu là Ấn Độ với 45% tổng sản lượng. Về mặt thực vật học, ổi là quả mọng.
Loài được ăn thường xuyên nhất và thường được gọi đơn giản là "ổi", là ổi thường (Psidium guayava). Hầu hết các giống ổi trồng trọt trên thế giới được nhân giống, lai tạo ra từ loài này. Ổi là loài Myrtoideae điển hình, có lá nặng, cứng, sẫm, mọc đối nhau, lá đơn, hình elip đến hình trứng và dài 5–15 cm (2,0–5,9 in). Hoa có màu trắng, năm cánh và nhiều nhị hoa. Quả là loại quả mọng có nhiều hạt.[5]
Thuật ngữ ổi trong tiếng Anh, guava, dường như đã được sử dụng từ giữa thế kỷ 16.[6] Tên gọi bắt nguồn từ tiếng Taíno,[7] một ngôn ngữ của người Arawak, là guayabo biến thành guava qua tiếng Tây Ban Nha cho guayaba.[6] Nó đã được chuyển thể sang nhiều ngôn ngữ châu Âu và châu Á, có hình thức tương tự.[4]
Ổi có nguồn gốc từ một khu vực được cho là kéo dài từ México, Trung Mỹ hoặc phía bắc Nam Mỹ trên khắp khu vực Caribe.[4][8][9] Các địa điểm khảo cổ ở Peru đã mang lại bằng chứng về việc trồng ổi vào khoảng năm 2500 trước Công Nguyên.[9]
Ổi được sử dụng làm cây trồng ở châu Á nhiệt đới và cận nhiệt đới, một số vùng của Hoa Kỳ (từ Tennessee và Bắc Carolina, về phía nam, cũng như phía tây và Hawaii), châu Phi nhiệt đới và châu Đại Dương.[8] Ổi được du nhập vào Florida, Hoa Kỳ vào thế kỷ 19[4] và được trồng xa về phía bắc như Sarasota, Chipley, Waldo và Fort Pierce. Tuy nhiên, chúng là vật chủ chính của ruồi đục quả Caribe và phải được bảo vệ tránh nạn xâm nhập ở các khu vực của Florida nơi loài gây hại này xuất hiện.[10]
Ổi được trồng ở một số nước nhiệt đới và cận nhiệt đới.[4][8] Một số loài được trồng vì mục đích thương mại; ổi thường và giống cây của loài này là những loại được giao dịch phổ biến nhất trên phạm vi quốc tế.[4] Ổi cũng mọc ở tây nam châu Âu, đặc biệt là Costa del Sol ở Málaga (Tây Ban Nha) và Hy Lạp, nơi ổi đã được trồng thương mại từ thế kỷ 20 và chúng sinh sôi nảy nở dưới dạng cây trồng.[8] Cây trưởng thành của hầu hết các loài đều khá chịu lạnh và có thể tồn tại ở nhiệt độ lạnh hơn 25 °F (−4 °C) một chút trong thời gian ngắn, nhưng những cây non hơn có thể sẽ bị đóng băng trên mặt đất.[11]
Ổi được người dân ở các vùng cận nhiệt đới quan tâm trồng tại nhà vì là một trong số ít loại trái cây nhiệt đới có thể phát triển đến kích cỡ đậu quả trong chậu cảnh. Khi được trồng từ hạt, cây ổi có thể ra quả trong hai năm và có thể tiếp tục như vậy trong bốn mươi năm.[4]
Các loài Psidium bị sâu bướm của một số cánh vẩy đục khoét, chủ yếu là bướm đêm như Ello Sphinx (Erinnyis ello), Eupseudosoma aberrans, E. involutum và Hypercompe icasia. Bọ ve như Pronematus pruni và Tydeus munsteri được biết đến là loài gây hại cây trồng trên ổi thường (P. guajava) và có lẽ cả các loài khác.[4] Vi khuẩn Erwinia psidii gây bệnh thối ổi.[12]
Loại quả này được con người trồng và ưa chuộng. Nhiều loài động vật khác như chim cũng thích ăn ổi, và dễ dàng phát tán hạt trong phân của chúng. Ở Hawaii, ổi sẻ (P. littorale) đã trở thành loài xâm lấn hung hãn đe dọa tuyệt chủng hơn 100 loài thực vật khác.[13][14] Ngược lại, một số loài ổi đã trở nên hiếm do môi trường sống bị phá hủy và ít nhất một loài (ổi Jamaica, P. dumetorum), đã tuyệt chủng.[15]
Quả ổi dài khoảng 4 đến 12 cm (1,6 đến 4,7 in), có hình tròn hoặc hình bầu dục tùy theo loài.[4] Chúng có mùi thơm đặc trưng và rõ rệt, tương tự như vỏ chanh nhưng kém đậm hơn. Lớp vỏ bên ngoài có thể sần sùi, thường có vị đắng hoặc mềm và ngọt. Khác nhau giữa các loài, vỏ có thể có độ dày bất kỳ, thường có màu xanh trước khi trưởng thành, nhưng có thể có màu vàng, màu hạt dẻ hoặc xanh lục khi chín. Thịt bên trong có thể có vị ngọt hoặc chua và có màu trắng nhạt (ổi ruột trắng) đến màu hồng đậm (ổi ruột đỏ). Hạt ở phần cùi trung tâm có số lượng và độ cứng khác nhau tùy theo loài.[4]
Năm 2019, sản lượng ổi thế giới là 55 triệu tấn, dẫn đầu là Ấn Độ với 45% tổng sản lượng (bảng). Các nước sản xuất lớn khác là Trung Quốc và Thái Lan.[16]
Sản xuất ổi – 2019 | |
---|---|
Quốc gia | Sản xuất (triệu tấn) |
21,8
| |
4,8
| |
3,8
| |
3,1
| |
2,3
| |
2,1
| |
Thế giới
|
55,4
|
Nguồn: Nền tảng thương mại toàn cầu Tridge (từ FAOSTAT)[16] |
Ở México và các nước Mỹ Latinh khác, đồ uống phổ biến agua fresca thường được nấu bằng ổi. Toàn bộ quả là thành phần chính trong món punch và nước ép thường được sử dụng trong nước sốt ẩm thực (nóng hoặc lạnh), bia, kẹo, đồ ăn nhẹ khô, thanh trái cây và món tráng miệng hoặc nhúng vào sốt chamoy. Pulque de guayaba ("guayaba" trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là ổi) là một loại đồ uống có cồn phổ biến ở những vùng này.[17]
Ở nhiều nước, ổi được ăn sống, thường cắt thành từng phần tư hoặc ăn như táo. Cũng có thể ăn với một chút muối và tiêu, bột cayenne hoặc hỗn hợp gia vị (masala). Ở Philippines, ổi chín được dùng để nấu món sinigang. Ổi là một món ăn nhẹ phổ biến ở Cuba với tên gọi pastelitos de guayaba. Ở Đài Loan, được bán ở nhiều góc phố, chợ đêm khi trời nắng nóng, kèm theo gói bột mận khô trộn với đường và muối để chấm. Ở Đông Á, ổi được ăn với hỗn hợp bột mận khô chua ngọt. Nước ép ổi được ưa chuộng ở nhiều nước. Quả cũng thường được thêm vào trong món xà lách trái cây.
Do hàm lượng pectin cao nên ổi được sử dụng rộng rãi để làm kẹo, chất bảo quản, thạch, mứt và marmalade (chẳng hạn như goiabada của Brasil và bocadillo của Colombia và Venezuela), cũng như mứt kẹo phục vụ trên bánh mì nướng.[4]
Ổi ruột đỏ có thể được dùng làm nền cho các sản phẩm muối như nước sốt, thay thế cho cà chua, đặc biệt để giảm thiểu độ chua. Một loại đồ uống có thể được làm từ dịch ép của quả và lá ổi, ở Brasil được gọi là chá-de-goiabeira, tức là "trà" từ lá ổi, được xem như thuốc.[18]
Ổi rất giàu chất xơ và vitamin C, với hàm lượng acid folic vừa phải (bảng dinh dưỡng). Một quả ổi (P. guajava) có năng lượng thực phẩm thấp trên mỗi khẩu phần thông thường, với ít chất dinh dưỡng thiết yếu, thường chứa 254% giá trị hàng ngày của vitamin C (bảng).[19] Hàm lượng dinh dưỡng khác nhau giữa các giống ổi. Mặc dù ổi sẻ (P. littorale var. Cattleianum) chỉ có 39% lượng vitamin C thông thường, nhưng hàm lượng của quả trong một khẩu phần 100 g vẫn cung cấp 41% giá trị hàng ngày.[20]
Do một số hóa thực vật tạo ra màu sắc của vỏ và thịt quả, nên ổi có màu đỏ cam có xu hướng chứa nhiều polyphenol và carotenoid hơn những quả có màu vàng xanh. Lá ổi chứa cả carotenoid và polyphenol như (+)-gallocatechin và leucocyanidin.[21]
Hạt ổi là phụ phẩm của quá trình chế biến được thực hiện trong ngành công nghiệp nước ép ổi thương mại. Dầu hạt ổi, có thể được sử dụng trong các sản phẩm ẩm thực hoặc mỹ phẩm, là nguồn cung cấp acid béo thiết yếu như acid linoleic, phenolics và phytosterol.[22][23][24]
Trong nghiên cứu, dầu hạt ổi đã được sử dụng, thu được bằng cách chiết xuất hexan của hạt ổi để xác định thành phần và thử nghiệm độc tính, sự di chuyển tế bào, khả năng sống sót của tế bào ung thư và sự phát triển của plasmodium. Dầu hạt ổi tương đối không độc đối với tế bào gan bình thường và tế bào đơn nhân máu ngoại vi, với chuột nhỏ trong 14 ngày cho biết liều gây chết trung bình (LD50) > 10 mg/kg và chuột nhỏ trong tối đa 90 ngày.[23] Điều đáng ngạc nhiên là dầu đã ức chế sự tăng sinh của hội chứng tăng bạch cầu ở người theo cách dựa theo liều lượng với nửa giá trị cô cạn ức chế tối đa lần lượt là 155 và 137 μg/ml sau 24 và 48 giờ. Điều quan trọng là dầu hạt ổi ở mức 500 μg/ml được phát hiện làm tăng mức độ di chuyển của tế bào sừng (HaCaT). Những quan sát này cho biết rằng dầu hạt ổi ăn được, chứa nhiều acid linoleic và chất chống oxy hóa, có thể thúc đẩy quá trình lành vết thương trên da và ức chế sự tăng sinh của các tế bào bạch cầu.[23]
Theo nghiên cứu, tiêu thụ dầu hạt ổi trong thời gian dài không làm tăng nồng độ cholesterol và chất béo trung tính trong huyết thanh chuột, nhưng lại xu hướng làm giảm nồng độ acid béo trong huyết thanh bằng cách dựa theo lượng cô cạn. Đây là nghiên cứu đầu tiên báo cáo về các thành phần lipid, phytosterol và phenolic, hoạt động chống oxy hóa cũng như khả năng bảo vệ gan và thần kinh ở mức độ căng thẳng oxy hóa do hydro peroxide gây ra trong chiết xuất dầu hạt ổi.[24]
Thành phần acid béo trong dầu hạt ổi được thể hiện trong bảng sau:
Acid lauric | <1,5% |
Acid myristic | <1,0% |
Acid palmitic | 8–10% |
Acid stearic | 5–7% |
Acid oleic | 8–12% |
Acid linoleic | 65–75% |
Chất béo bão hòa, tổng số | 14% |
Chất béo không bão hòa, tổng số | 86% |
Từ những năm 1950, ổi, đặc biệt là lá, đã được nghiên cứu về thành phần, đặc tính sinh học tiềm năng và lịch sử trong y học dân gian.[25]
Ổi là một trong những vật chủ phổ biến nhất của ruồi giấm như A. suspensa, chúng đẻ trứng trong những quả ổi quá chín hoặc hư hỏng. Ấu trùng ruồi này sau đó ăn quả cho đến khi chúng có thể chuyển sang giai đoạn nhộng.[26] Dạng ký sinh này đã gây ra thiệt hại kinh tế hàng triệu USD cho các quốc gia ở Trung Mỹ.[27]
Các loài nấm Neopestalotiopsis và Pestalotiopsis là tác nhân gây bệnh ghẻ ổi ở Colombia.[28]
aguas frescas national geographic.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ổi. |