S (lớp tàu ngầm Anh) (1931)

Tàu ngầm HMS Stonehenge
Khái quát lớp tàu
Tên gọi lớp S
Lớp trước Lớp Rainbow
Lớp sau Lớp River
Hoàn thành 62

Lớp tàu ngầm S (1931) của Hải quân Hoàng gia Anh nguyên được thiết kế và chế tạo trong giai đoạn hiện đại hóa lực lượng tàu ngầm vào đầu thập niên 1930 nhằm đáp ứng nhu cầu về một kiểu tàu ngầm nhỏ để tuần tra tại vùng biển bị giới hạn như Bắc HảiĐịa Trung Hải, thay thế cho tàu ngầm lớp H. Lớp S tiếp tục chiếm một phần quan trong trong chương trình chế tạo tàu chiến của Hải quân Hoàng gia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và là lớp tàu ngầm có số lượng nhiều nhất của Hải quân Hoàng gia, với tổng cộng 62 chiếc thuộc ba nhóm được chế tạo trong suốt 15 năm, bao gồm 50 chiếc thuộc lớp S "cải tiến" được hạ thủy từ năm 1940 đến năm 1945.

Vào lúc Thế Chiến II nổ ra, lớp S cùng với các lớp Ulớp T của Anh, lớp O 21 của Hà Lan Type VII của Đức Quốc xã nằm trong số những tàu ngầm tiên tiến nhất được đưa ra hoạt động vào lúc đó.[1]

Khái quát lớp tàu
Tên gọi Nhóm I
Thời gian đóng tàu 1930-1932
Hoàn thành 4
Bị mất 3
Nghỉ hưu 1
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 640 tấn Anh (650 t) (nổi)
  • 935 tấn Anh (950 t) (ngầm)
Chiều dài 202 ft 6 in (61,7 m)
Sườn ngang 24 ft (7,3 m)
Mớn nước 11 ft 11 in (3,63 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 3.700 hải lý (6.900 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) (nổi)
  • 64 hải lý (119 km) ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h) (lặn)
Thủy thủ đoàn tối đa 36-38
Vũ khí
Hình dạng bên ngoài của tàu ngầm lớp S, nhóm I

Nhóm I của lớp tàu ngầm S bao gồm bốn chiếc. Chúng nhỏ và chậm hơn so với các nhóm tiếp theo, được vũ trang ít hơn, nhưng có thể vận hành bởi một thủy thủ đoàn ít người hơn. Hai chiếc SwordfishSturgeon được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1929; và thêm hai chiếc SeahorseStarfish được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1930. Cả bốn chiếc đều được chế tạo tại Xưởng tàu Chatham từ năm 1930 đến năm 1932. Trong chiến tranh chúng đã hoạt động tại vùng biển nhà, đặc biệt là tại eo biển Manche, và dọc theo bờ biển bán đảo Scandinavia. Nhóm I có tỉ lệ tổn thất cao trong chiến tranh, khi chỉ còn lại duy nhất chiếc Sturgeon sống sót.

Tên (số hiệu) Xưởng đóng tàu Đặt lườn Hạ thủy Nhập biên chế Số phận
Swordfish (61S) Xưởng tàu Chatham 1 tháng 12, 1930 10 tháng 11, 1931 28 tháng 11, 1932 Đắm do trúng thủy lôi, 7 tháng 11, 1940
Sturgeon (73S) 3 tháng 1, 1931 8 tháng 1, 1932 27 tháng 2, 1933 Bán để tháo dỡ, tháng 1, 1946
Seahorse (98S) 14 tháng 9, 1931 15 tháng 11, 1932 2 tháng 10, 1933 Bị tàu quét mìn Đức đánh chìm, 7 tháng 1, 1940
Starfish (19S) 29 tháng 9, 1931 14 tháng 3, 1933 27 tháng 10, 1933 Bị tàu quét mìn Đức đánh chìm, 9 tháng 1, 1940
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Nhóm II
Thời gian đóng tàu 1934-1937
Hoàn thành 8
Bị mất 6
Nghỉ hưu 2
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 768 tấn Anh (780 t) (nổi)
  • 960 tấn Anh (980 t) (ngầm)
Chiều dài 208 ft 8 in (63,6 m)
Sườn ngang 24 ft (7,3 m)
Mớn nước 11 ft 10 in (3,61 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 6.000 hải lý (11.000 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) (nổi)
  • 64 hải lý (119 km) ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 300 foot (91 m)
Thủy thủ đoàn tối đa 39-40
Vũ khí
Hình dạng bên ngoài của tàu ngầm lớp S, nhóm II

Nhóm II của lớp tàu ngầm S bao gồm tám chiếc. Chúng lớn hơn tàu ngầm nhóm I và yêu cầu một thủy thủ đoàn đông hơn, nhưng vẫn trang bị vũ khí tương tự. Nhóm II có trữ lượng nhiên liệu được tăng thêm đến 72 tấn Anh (73 t), giúp chúng nâng cao tầm hoạt động lên 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[2]

Hai chiếc SealionShark (54S) được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1931; hai chiếc SnapperSalmon được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1932; chiếc Seawolfđược đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1933; hai chiếc SpearfishSunfish được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1934; và chiếc Sterletđược đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1935.

Công việc chế tạo được phân chia giữa Xưởng tàu Chatham và các hãng đóng tàu Scotts tại GreenockCammell Laird & Co Limited tại Birkenhead, tất cả đều được đóng từ năm 1934 đến năm 1937. Trong chiến tranh, giống như nhóm I, chúng hầu như chỉ hoạt động tại vùng biển nhà, xa nhất cho đến vịnh Biscay và dọc theo bờ biển bán đảo Scandinavia. Duy nhất một chiếc HMS Sunfish được chuyển cho Hải quân Liên Xô và được đổi tên thành V-1; tuy nhiên nó lại bị đánh chìm do hỏa lực bắn nhầm từ máy bay Anh lúc đang trên đường từ Dundee đến Murmansk.

Tỉ lệ tổn thất trong chiến tranh của nhóm II vẫn duy trì ở mức cao, khi chỉ có hai chiếc HMS Sealion và HMS Seawolf sống sót qua Thế Chiến II.

Tên (số hiệu) Xưởng đóng tàu Đặt lườn Hạ thủy Nhập biên chế Số phận
Sealion (72S) Cammell Laird, Birkenhead 16 tháng 5, 1933 16 tháng 3, 1934 21 tháng 12, 1934 Bị đánh chìm như mục tiêu, 13 tháng 3, 1946
Shark (54S) Xưởng tàu Chatham 12 tháng 6, 1933 31 tháng 5, 1934 31 tháng 12, 1934 Hư hại nặng do không kích, tự đánh đắm ngoài khơi Na Uy, 6 tháng 7, 1940
Snapper 18 tháng 9, 1933 25 tháng 10, 1934 14 tháng 6, 1935 Mất tích sau ngày 29 tháng 1, 1941
Salmon Cammell Laird, Birkenhead 15 tháng 6, 1933 30 tháng 4, 1934 8 tháng 3, 1935 Có thể mất do trúng thủy lôi, 9 tháng 7, 1940
Seawolf Scotts, Greenock 25 tháng 5, 1934 28 tháng 11, 1935 12 tháng 3, 1936 Bán để tháo dỡ, tháng 11, 1945
Spearfish Cammell Laird, Birkenhead 23 tháng 5, 1935 21 tháng 4, 1936 11 tháng 12, 1936 Bị tàu ngầm Đức U-34 đánh chìm, 1 tháng 8, 1940
Sunfish Xưởng tàu Chatham 22 tháng 7, 1935 30 tháng 9, 1936 2 tháng 7, 1937 Chuyển cho Liên Xô như là chiếc V 1, 1944; bị đánh chìm, 27 tháng 7, 1944
Sterlet 14 tháng 7, 1936 22 tháng 9, 1937 6 tháng 4, 1938 Bị đánh chìm, vó thể bởi tàu chống ngầm Đức hoặc trúng thủy lôi 18 tháng 4, 1940
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Nhóm III
Hoàn thành 50 (ngoại trừ những chiếc bị hủy bỏ)
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 842 tấn Anh (856 t) (nổi)
  • 990 tấn Anh (1.010 t) (ngầm)
Chiều dài 217 ft (66,1 m)
Sườn ngang 23 ft 9 in (7,2 m)
Mớn nước 14 ft 8 in (4,47 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 6.000 hải lý (11.000 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) (nổi)
  • 120 hải lý (220 km) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 300 foot (91 m)
Thủy thủ đoàn tối đa 48-49
Hệ thống cảm biến và xử lý
Vũ khí
Hình dạng bên ngoài của tàu ngầm lớp S, nhóm III

Nhóm III là nhóm có số lượng lớn nhất trong số tàu ngầm lớp S bao gồm 50 chiếc. Nhóm này có trọng lượng lớn nhất đồng thời được vũ tranh mạnh nhất, nhưng cũng yêu cầu nhân sự thủy thủ đoàn nhiều hơn. Chúng nhanh hơn một knot khi đi trên mặt nước, nhưng chậm hơn hai knot khi lặn so với nhóm trước. Phần lớn các con tàu được đóng tại các xưởng tàu của hãng ScottsGreenock hay Cammell Laird & Co Ltd. ở Birkenhead, nhưng một số cũng được đóng bởi Xưởng tàu Chatham hay Vickers Armstrongs LtdBarrow-in-Furness. Việc chế tạo nhóm này kéo dài suốt chiến tranh, đặc biệt là từ năm 1941 đến năm 1945. Với trữ lượng nhiên liệu được nâng lên đến 98 tấn, chúng có thể hoạt động xa hơn tại Địa Trung Hải và khu vực Thái Bình Dương.[2]

Nhóm III chia thành hai phân lớp khác biệt. Phân lớp thứ nhất có trọng lượng choán nước 842 tấn, bao gồm những chiếc được đặt hàng trong các Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh 1939, Chương trình 1940 và 1941 (ngoại trừ Sea DevilScotsman), cùng với SturdyStygian thuộc Chương trình 1942; ngoài sáu ống phóng ngư lôi phía mũi chúng còn trang thêm một ống phía đuôi bên ngoài. Phân lớp thứ hai có trọng lượng choán nước 814 tấn, bao gồm Sea DevilScotsman cùng những chiếc được đặt hàng trong các Chương trình 1942 và 1943 (ngoại trừ SturdyStygian); chúng không có ống phóng ngư lôi phía đuôi bên ngoài, nhưng có lườn áp lực được hàn dày hơn cho phép con tàu lặn sâu đến 350 ft (110 m) thay vì chỉ đến 300 ft (91 m).

Tỉ lệ tổn thất của nhóm này vẫn còn cao, khi đến chín chiếc: P222, Saracen, Sahib, Sickle, Simoom, Splendid, Stonehenge, StratagemSyrtis bị mất trong cuộc xung đột, cộng với ShakespeareStrongbow bị hư hại nặng đến mức phải loại bỏ và tháo dỡ. Những chiếc sống sót đã tiếp tục phục vụ sau chiến tranh. Sportsman, sau khi được chuyển cho Hải quân Pháp, đã bị mất tại Toulon năm 1952; Sidon bị đắm năm 1955 sau khi một ngư lôi gặp sự cố kỹ thuật.

Tên (số hiệu) Xưởng đóng tàu Đặt lườn Hạ thủy Nhập biên chế Số phận
Safari (P211) Cammell Laird, Birkenhead 5 tháng 6, 1940 18 tháng 11, 1941 14 tháng 3, 1942 Bán để tháo dỡ, 7 tháng 1, 1946; Đắm trong khi được kéo đi, 8 tháng 1, 1946
Sahib (P212) 5 tháng 7, 1940 19 tháng 1, 1942 13 tháng 5, 1942 Bị tàu chiến Ý đánh chìm phía Bắc Sicilia, 24 tháng 4, 1943
Saracen (P247) 16 tháng 7, 1940 16 tháng 2, 1942 27 tháng 6, 1942 Bị tàu chiến Ý đánh chìm phía Đông đảo Corse, 14 tháng 8, 1943
Satyr (P214) Scotts Shipbuilding and Engineering Company, Greenock 8 tháng 6, 1940 28 tháng 9, 1942 8 tháng 2, 1943 Chuyển cho Pháp như là chiếc Saphir, 1952; tháo dỡ 1962
Sceptre (P215) 25 tháng 7, 1940 6 tháng 1, 1943 15 tháng 4, 1943 Bán để tháo dỡ, tháng 9, 1949
Seadog (P216) Cammell Laird, Birkenhead 31 tháng 12, 1940 11 tháng 6, 1942 24 tháng 9, 1942 Bán để tháo dỡ, tháng 8, 1948
Sibyl (P217) 31 tháng 12, 1940 29 tháng 4, 1942 16 tháng 8, 1942 Bán để tháo dỡ, 1948
Sea Rover (P218) Scotts, Greenock 14 tháng 4, 1941 25 tháng 2, 1943 7 tháng 7, 1943 Bán để tháo dỡ, tháng 10, 1949
Seraph (P219) Vickers Armstrong, Barrow-in-Furness 16 tháng 8, 1940 25 tháng 10, 1941 27 tháng 6, 1942 Bán để tháo dỡ, 20 tháng 12, 1962
Shakespeare (P221) 13 tháng 11, 1940 8 tháng 12, 1941 10 tháng 7, 1942 Bán để tháo dỡ, 14 tháng 7, 1946
P222 10 tháng 8, 1940 20 tháng 9, 1941 4 tháng 5, 1942 Có thể bị đánh chìm ngoài khơi Capri, 12 tháng 12, 1942
Sea Nymph (P223) Cammell Laird, Birkenhead 6 tháng 5, 1941 29 tháng 7, 1942 3 tháng 11, 1942 Bán để tháo dỡ, 1948
Sickle (P224) 8 tháng 5, 1941 27 tháng 8, 1942 1 tháng 12, 1942 Có thể đắm do trúng thủy lôi trong biển Aegean, tháng 6, 1944
Simoom (P225) 14 tháng 7, 1941 12 tháng 10, 1942 30 tháng 12, 1942 Có thể đắm do trúng thủy lôi ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ, 4 tháng 11, 1943
Sirdar (P226) Scotts, Greenock 24 tháng 4, 1941 26 tháng 3, 1943 20 tháng 9, 1943 Bán để tháo dỡ, 1965
Spiteful (P227) 19 tháng 9, 1941 5 tháng 6, 1943 6 tháng 10, 1943 Bán để tháo dỡ, 1963
Splendid (P228) Xưởng tàu Chatham 7 tháng 3, 1941 19 tháng 1, 1942 8 tháng 8, 1942 Bị tàu khu trục Đức Hermes đánh chìm ngoài khơi Naples, 21 tháng 4, 1943
Sportsman (P229) 1 tháng 7, 1941 17 tháng 4, 1942 21 tháng 12, 1942 Chuyển cho Hải quân Pháp, 8 tháng 7, 1952; đắm ngoài khơi Toulon, 24 tháng 9, 1952
HMS P81 - HMS P87 Vickers Armstrong, Barrow-in-Furness Bị hủy bỏ
Stoic (P231) Cammell Laird, Birkenhead 18 tháng 6, 1942 9 tháng 4, 1943 29 tháng 6, 1943 Bán để tháo dỡ, 1950
Stonehenge (P232) 4 tháng 4, 1942 23 tháng 3, 1943 15 tháng 6, 1943 Có thể đắm do trúng thủy lôi trong Ấn Độ Dương, tháng 3, 1944
Storm (P233) 23 tháng 6, 1942 18 tháng 5, 1943 9 tháng 7, 1943 Bán để tháo dỡ, 1949
Stratagem (P234) 15 tháng 4, 1942 21 tháng 6, 1943 9 tháng 10, 1943 Bị tàu săn ngầm Nhật Bản đánh chìm trong eo biển Malacca, 22 tháng 11, 1944
Strongbow (P235) Scotts, Greenock 17 tháng 4, 1942 30 tháng 8, 1943 23 tháng 12, 1943 Bán để tháo dỡ, 1946
Spark (P236) 10 tháng 10, 1942 28 tháng 12, 1943 28 tháng 4, 1944 Bán để tháo dỡ, 1950
Scythian (P237) 21 tháng 2, 1943 14 tháng 4, 1944 11 tháng 8, 1944 Bán để tháo dỡ, 1960
Stubborn (P238) Cammell Laird, Birkenhead 10 tháng 9, 1941 11 tháng 11, 1942 20 tháng 2, 1943 Bị đánh chìm như mục tiêu, 1946
Surf (P239) 1 tháng 2, 1941 10 tháng 12, 1942 18 tháng 3, 1943 Bán để tháo dỡ, 1949
Syrtis (P241) 14 tháng 10, 1941 4 tháng 2, 1943 23 tháng 4, 1943 Mất tích ngoài khơi Na Uy, tháng 3, 1944
Shalimar (P242) Xưởng tàu Chatham 17 tháng 4, 1942 22 tháng 4, 1943 22 tháng 4, 1944 Bán để tháo dỡ, 1950
Scotsman (P243) Scotts, Greenock 15 tháng 4, 1943 18 tháng 8, 1944 9 tháng 12, 1944 Bán để tháo dỡ, 1964
Sea Devil (P244) 5 tháng 5, 1943 30 tháng 1, 1945 12 tháng 5, 1945 Bán để tháo dỡ, 1966
Spirit (P245) Cammell Laird, Birkenhead 27 tháng 10, 1942 20 tháng 7, 1943 25 tháng 10, 1943 Bán để tháo dỡ, 1950
Statesman (P246) 2 tháng 11, 1942 14 tháng 9, 1943 13 tháng 12, 1943 Chuyển cho Hải quân Pháp như là chiếc Sultane, 1952; tháo dỡ 1961
Sturdy (P248) 22 tháng 12, 1942 30 tháng 9, 1943 29 tháng 12, 1943 Bán để tháo dỡ, 1957
Stygian (P249) 6 tháng 1, 1943 30 tháng 11, 1943 29 tháng 2, 1944 Bán để tháo dỡ, 1949
Subtle (P251) 1 tháng 2, 1943 27 tháng 1, 1944 16 tháng 4, 1944 Bán để tháo dỡ, 1959
Supreme (P252) 15 tháng 2, 1943 24 tháng 2, 1944 20 tháng 5, 1944 Bán để tháo dỡ, 1950
Sea Scout (P253) 1 tháng 4, 1943 24 tháng 3, 1944 19 tháng 6, 1944 Bán để tháo dỡ, 1965
Selene (P254) 16 tháng 4, 1943 24 tháng 4, 1944 14 tháng 7, 1944 Bán để tháo dỡ, 1961
Seneschal (P255) Scotts, Greenock 1 tháng 9, 1943 23 tháng 4, 1945 6 tháng 9, 1945 Bán để tháo dỡ, 1960
Sentinel (P256) 15 tháng 11, 1943 27 tháng 7, 1945 28 tháng 12, 1945 Bán để tháo dỡ, 1962
Sidon (P259) Cammell Laird, Birkenhead 7 tháng 7, 1943 4 tháng 9, 1944 23 tháng 11, 1944 Đắm do tai nạn nổ ngư lôi, 16 tháng 6, 1955; trục vớt và đánh chìm như mục tiêu, 1957
Sleuth (P261) 30 tháng 6, 1943 6 tháng 7, 1944 8 tháng 10, 1944 Bán để tháo dỡ, 1958
Solent (P262) 7 tháng 5, 1943 8 tháng 6, 1944 7 tháng 9, 1944 Bán để tháo dỡ, 1961
Spearhead (P263) 18 tháng 8, 1943 2 tháng 10, 1944 21 tháng 12, 1944 Chuyển cho Bồ Đào Nha như là chiếc NRP Neptuno, 1948; tháo dỡ, 1967
Springer (P264) 8 tháng 5, 1944 14 tháng 5, 1945 2 tháng 8, 1945 Chuyển cho Israel như là chiếc INS Tanin, 1958; loại bỏ 1972
Saga (P257) 5 tháng 4, 1944 14 tháng 3, 1945 14 tháng 6, 1945 Chuyển cho Bồ Đào Nha như là chiếc NRP Náutilo, 1948; loại bỏ 1969
Scorcher (P258) 14 tháng 12, 1943 18 tháng 12, 1944 16 tháng 3, 1945 Bán để tháo dỡ, 1962
Spur (P265) 1 tháng 10, 1943 17 tháng 11, 1944 18 tháng 2, 1945 Chuyển cho Bồ Đào Nha như là chiếc NRP Narval, 1948; tháo dỡ, 1969
Sanguine (P266) 10 tháng 1, 1944 15 tháng 2, 1945 13 tháng 5, 1945 Chuyển cho Israel như là chiếc INS Rahav, 1958; tháo dỡ làm nguồn phụ tùng, 1968
Sea Robin (P267)
Sprightly (P268)
Surface (P269)
Surge (P271)
Bị hủy bỏ

Phục vụ cùng hải quân nước ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều tàu ngầm lớp S đã được bán hoặc chuyển giao cho hải quân các nước khác.[3]

Nhóm I:

Nhóm II:

Nhóm III:

  • Vào năm 1948, ba tàu ngầm được chuyển cho Hải quân Bồ Đào Nha:
    • HMS Spearhead trở thành chiếc Neptuno
    • HMS Saga trở thành chiếc Nautilo
    • HMS Spur trở thành chiếc Narval
  • Vào năm 1952, bốn tàu ngầm được chuyển cho Hải quân Pháp và trở thành lớp Saphir:
    • HMS Satyr trở thành chiếc Saphir
    • HMS Spiteful trở thành chiếc Sirene
    • HMS Sportsman trở thành chiếc Sibylle nhưng bị mất trong một tai nạn khi lặn vào tháng 9, 1952
    • HMS Statesman trở thành chiếc Sultane
  • Vào năm 1959, hai tàu ngầm được bán cho Hải quân Israel:

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ van den Pol (1989), tr. 352.
  2. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 110.
  3. ^ Gardiner & Chumbley (1995), tr. 51-52.
  4. ^ Dotan-Boshner, Uri (2000). “Israeli S Class Submarines”. submarines.dotan.net. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  5. ^ “בחיל הים שקלו לקרוא לצוללת החדשה "דקר". www.nrg.co.il/. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Gardiner, Robert; Chumbley, Stephen (1995). Conway's All The World's Fighting Ships 1947–1995. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-132-7.
  • Colledge, J. J.; Warlow, Ben (2006). Ships of the Royal Navy: The Complete Record of all Fighting Ships of the Royal Navy . London: Chatham Publishing. ISBN 978-1861762818.
  • van den Pol, E. (1989). “Aspects of submarines - Part I: Some notes on development”. Schip en Werf. Rotterdam: Wyt & Zonen. 56 (10): 352–358. ISSN 0036-6099.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Chân dung Drew Gilpin Faust - Hiệu trưởng Đại học Harvard
Chân dung Drew Gilpin Faust - Hiệu trưởng Đại học Harvard
Đó là những lời khẳng định đanh thép, chắc chắn và đầy quyền lực của người phụ nữ đang gánh trên vai ngôi trường đại học hàng đầu thế giới
Nhân vật Kei Karuizawa - Classroom of the Elite
Nhân vật Kei Karuizawa - Classroom of the Elite
Đến cuối cùng, kể cả khi mình đã nhập học ở ngôi trường này. Vẫn không có gì thay đổi cả. Không, có lẽ là vì ngay từ ban đầu mình đã không có ý định thay đổi bất kì điều gì rồi. Mọi chuyện vẫn giống như ngày trước, bất kể mọi chuyện. Lý do thì cũng đơn giản thôi. ... Bởi vì, bản thân mình muốn thế.
Data Analytics:
Data Analytics: "Miền đất hứa" cho sinh viên Kinh tế và những điều cần biết
Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng những khái niệm liên quan như IoT (Internet of Things), Big Data
Sơ lược về thuật thức của gia tộc Kamo
Sơ lược về thuật thức của gia tộc Kamo
Xích Huyết Thao Thuật là một trong những thuật thức quý giá được truyền qua nhiều thế hệ của tộc Kamo.