![]() Tàu ngầm HMS Stonehenge
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | lớp S |
Lớp trước | Lớp Rainbow |
Lớp sau | Lớp River |
Hoàn thành | 62 |
Lớp tàu ngầm S (1931) của Hải quân Hoàng gia Anh nguyên được thiết kế và chế tạo trong giai đoạn hiện đại hóa lực lượng tàu ngầm vào đầu thập niên 1930 nhằm đáp ứng nhu cầu về một kiểu tàu ngầm nhỏ để tuần tra tại vùng biển bị giới hạn như Bắc Hải và Địa Trung Hải, thay thế cho tàu ngầm lớp H. Lớp S tiếp tục chiếm một phần quan trong trong chương trình chế tạo tàu chiến của Hải quân Hoàng gia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và là lớp tàu ngầm có số lượng nhiều nhất của Hải quân Hoàng gia, với tổng cộng 62 chiếc thuộc ba nhóm được chế tạo trong suốt 15 năm, bao gồm 50 chiếc thuộc lớp S "cải tiến" được hạ thủy từ năm 1940 đến năm 1945.
Vào lúc Thế Chiến II nổ ra, lớp S cùng với các lớp U và lớp T của Anh, lớp O 21 của Hà Lan và Type VII của Đức Quốc xã nằm trong số những tàu ngầm tiên tiến nhất được đưa ra hoạt động vào lúc đó.[1]
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Nhóm I |
Thời gian đóng tàu | 1930-1932 |
Hoàn thành | 4 |
Bị mất | 3 |
Nghỉ hưu | 1 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 202 ft 6 in (61,7 m) |
Sườn ngang | 24 ft (7,3 m) |
Mớn nước | 11 ft 11 in (3,63 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 36-38 |
Vũ khí |
|
Nhóm I của lớp tàu ngầm S bao gồm bốn chiếc. Chúng nhỏ và chậm hơn so với các nhóm tiếp theo, được vũ trang ít hơn, nhưng có thể vận hành bởi một thủy thủ đoàn ít người hơn. Hai chiếc Swordfish và Sturgeon được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1929; và thêm hai chiếc Seahorse và Starfish được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1930. Cả bốn chiếc đều được chế tạo tại Xưởng tàu Chatham từ năm 1930 đến năm 1932. Trong chiến tranh chúng đã hoạt động tại vùng biển nhà, đặc biệt là tại eo biển Manche, và dọc theo bờ biển bán đảo Scandinavia. Nhóm I có tỉ lệ tổn thất cao trong chiến tranh, khi chỉ còn lại duy nhất chiếc Sturgeon sống sót.
Tên (số hiệu) | Xưởng đóng tàu | Đặt lườn | Hạ thủy | Nhập biên chế | Số phận |
---|---|---|---|---|---|
Swordfish (61S) | Xưởng tàu Chatham | 1 tháng 12, 1930 | 10 tháng 11, 1931 | 28 tháng 11, 1932 | Đắm do trúng thủy lôi, 7 tháng 11, 1940 |
Sturgeon (73S) | 3 tháng 1, 1931 | 8 tháng 1, 1932 | 27 tháng 2, 1933 | Bán để tháo dỡ, tháng 1, 1946 | |
Seahorse (98S) | 14 tháng 9, 1931 | 15 tháng 11, 1932 | 2 tháng 10, 1933 | Bị tàu quét mìn Đức đánh chìm, 7 tháng 1, 1940 | |
Starfish (19S) | 29 tháng 9, 1931 | 14 tháng 3, 1933 | 27 tháng 10, 1933 | Bị tàu quét mìn Đức đánh chìm, 9 tháng 1, 1940 |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Nhóm II |
Thời gian đóng tàu | 1934-1937 |
Hoàn thành | 8 |
Bị mất | 6 |
Nghỉ hưu | 2 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 208 ft 8 in (63,6 m) |
Sườn ngang | 24 ft (7,3 m) |
Mớn nước | 11 ft 10 in (3,61 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 300 foot (91 m) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 39-40 |
Vũ khí |
|
Nhóm II của lớp tàu ngầm S bao gồm tám chiếc. Chúng lớn hơn tàu ngầm nhóm I và yêu cầu một thủy thủ đoàn đông hơn, nhưng vẫn trang bị vũ khí tương tự. Nhóm II có trữ lượng nhiên liệu được tăng thêm đến 72 tấn Anh (73 t), giúp chúng nâng cao tầm hoạt động lên 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[2]
Hai chiếc Sealion và Shark (54S) được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1931; hai chiếc Snapper và Salmon được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1932; chiếc Seawolfđược đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1933; hai chiếc Spearfish và Sunfish được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1934; và chiếc Sterletđược đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo 1935.
Công việc chế tạo được phân chia giữa Xưởng tàu Chatham và các hãng đóng tàu Scotts tại Greenock và Cammell Laird & Co Limited tại Birkenhead, tất cả đều được đóng từ năm 1934 đến năm 1937. Trong chiến tranh, giống như nhóm I, chúng hầu như chỉ hoạt động tại vùng biển nhà, xa nhất cho đến vịnh Biscay và dọc theo bờ biển bán đảo Scandinavia. Duy nhất một chiếc HMS Sunfish được chuyển cho Hải quân Liên Xô và được đổi tên thành V-1; tuy nhiên nó lại bị đánh chìm do hỏa lực bắn nhầm từ máy bay Anh lúc đang trên đường từ Dundee đến Murmansk.
Tỉ lệ tổn thất trong chiến tranh của nhóm II vẫn duy trì ở mức cao, khi chỉ có hai chiếc HMS Sealion và HMS Seawolf sống sót qua Thế Chiến II.
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Nhóm III |
Hoàn thành | 50 (ngoại trừ những chiếc bị hủy bỏ) |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 217 ft (66,1 m) |
Sườn ngang | 23 ft 9 in (7,2 m) |
Mớn nước | 14 ft 8 in (4,47 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 300 foot (91 m) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 48-49 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
Nhóm III là nhóm có số lượng lớn nhất trong số tàu ngầm lớp S bao gồm 50 chiếc. Nhóm này có trọng lượng lớn nhất đồng thời được vũ tranh mạnh nhất, nhưng cũng yêu cầu nhân sự thủy thủ đoàn nhiều hơn. Chúng nhanh hơn một knot khi đi trên mặt nước, nhưng chậm hơn hai knot khi lặn so với nhóm trước. Phần lớn các con tàu được đóng tại các xưởng tàu của hãng Scotts ở Greenock hay Cammell Laird & Co Ltd. ở Birkenhead, nhưng một số cũng được đóng bởi Xưởng tàu Chatham hay Vickers Armstrongs Ltd ở Barrow-in-Furness. Việc chế tạo nhóm này kéo dài suốt chiến tranh, đặc biệt là từ năm 1941 đến năm 1945. Với trữ lượng nhiên liệu được nâng lên đến 98 tấn, chúng có thể hoạt động xa hơn tại Địa Trung Hải và khu vực Thái Bình Dương.[2]
Nhóm III chia thành hai phân lớp khác biệt. Phân lớp thứ nhất có trọng lượng choán nước 842 tấn, bao gồm những chiếc được đặt hàng trong các Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh 1939, Chương trình 1940 và 1941 (ngoại trừ Sea Devil và Scotsman), cùng với Sturdy và Stygian thuộc Chương trình 1942; ngoài sáu ống phóng ngư lôi phía mũi chúng còn trang thêm một ống phía đuôi bên ngoài. Phân lớp thứ hai có trọng lượng choán nước 814 tấn, bao gồm Sea Devil và Scotsman cùng những chiếc được đặt hàng trong các Chương trình 1942 và 1943 (ngoại trừ Sturdy và Stygian); chúng không có ống phóng ngư lôi phía đuôi bên ngoài, nhưng có lườn áp lực được hàn dày hơn cho phép con tàu lặn sâu đến 350 ft (110 m) thay vì chỉ đến 300 ft (91 m).
Tỉ lệ tổn thất của nhóm này vẫn còn cao, khi đến chín chiếc: P222, Saracen, Sahib, Sickle, Simoom, Splendid, Stonehenge, Stratagem và Syrtis bị mất trong cuộc xung đột, cộng với Shakespeare và Strongbow bị hư hại nặng đến mức phải loại bỏ và tháo dỡ. Những chiếc sống sót đã tiếp tục phục vụ sau chiến tranh. Sportsman, sau khi được chuyển cho Hải quân Pháp, đã bị mất tại Toulon năm 1952; Sidon bị đắm năm 1955 sau khi một ngư lôi gặp sự cố kỹ thuật.
Nhiều tàu ngầm lớp S đã được bán hoặc chuyển giao cho hải quân các nước khác.[3]
Nhóm I:
Nhóm II:
Nhóm III: