Smitsonit | |
---|---|
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật cacbonat |
Công thức hóa học | ZnCO3 |
Phân loại Strunz | 05.AB.05 |
Hệ tinh thể | ba phương - Hexagonal Scalenohedral |
Nhóm không gian | Ba phương 3 2/m |
Ô đơn vị | a = 4.6526(7) Å, c = 15.0257(22) Å; Z = 6 |
Nhận dạng | |
Màu | trắng, xám, vàng lục đến lục-táo, lam, hồng, tía, xám xanh, và nâu |
Dạng thường tinh thể | không phổ biến ở dạng tinh thể, typically botryoidal, reniform, spherulitic; stalactitic, đất, khối kết chặt |
Song tinh | không được quan sát |
Cát khai | hoàn toàn theo [1011] |
Vết vỡ | không phẳng, bán vỏ sò |
Độ bền | giòn |
Độ cứng Mohs | 4.5 |
Ánh | thủy tinh, có thể xà cừ |
Màu vết vạch | trắng |
Tính trong mờ | trong suốt |
Tỷ trọng riêng | 4.4 - 4.5 |
Thuộc tính quang | một trục (-) |
Chiết suất | nω = 1.842 - 1.850 nε = 1.619 - 1.623 |
Khúc xạ kép | δ = 0.223 - 0.227 |
Huỳnh quang | Có thể có huỳnh quang màu lục nhạt hoặc lam nhạt dưới tia UV |
Tham chiếu | [1][2][3] |
Smitsonit là một khoáng vật cacbonat kẽm (ZnCO3). Smitsonit từng được xác định cùng với hemimorphit trước khi nó được nhận ra chúng là 2 khoáng vật khác nhau. Hai khoáng vật này có vẻ bề ngoài rất giống và thuật ngữ calamine được dùng để chỉ cả hai nên gây ra một số nhầm lẫn. Smitsonit được đặt tên năm 1832 bởi François Sulpice Beudant để tưởng nhớ đến nhà hóa học và nhà khoáng vật học người Anh, James Smithson (c.1765–1829), người thành lập học viện Smithson và phát hiện khoáng vật đầu tiên năm 1802.[2][4]