The Hardest Part (bài hát)

"The Hardest Part"
Đĩa đơn của Coldplay
từ album X&Y
Mặt B"How You See the World" (trình diễn trực tiếp từ Earls Court)
Phát hành3 tháng 4 năm 2006
Thu âm2004
Thể loạiAlternative rock
Thời lượng4:25
Hãng đĩaParlophone
Sáng tác
Sản xuất
  • Danton Supple
  • Coldplay
Thứ tự đĩa đơn của Coldplay
"Talk"
(2005)
"The Hardest Part"
(2006)
"Violet Hill"
(2008)
Video âm nhạc
"The Hardest Part" trên YouTube

"The Hardest Part" là một ca khúc của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay do bốn thành viên của ban nhạc sáng tác cho album thứ ba của họ, X&Y (2005). Là một bài hát ballad trên piano, ca khúc bắt đầu bằng những giai điệu dương cầm, nối tiếp là những đoạn guitar điện đi kèm với nhịp trống tương đối chậm. Đây là đĩa đơn thứ tư từ X&Y, được phát hành vào ngày 3 tháng 4 năm 2006. Bài hát chỉ được phát hành vô tuyến thông qua sóng của các đài phát thanh Vương quốc Anh. Ca khúc còn xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard Hot Adult Contemporary Tracks và đạt tới vị trí thứ 37, trở thành lần xuất hiện đầu tiên của Coldplay trên bảng xếp hạng này và đồng thời mở đường cho các đĩa đơn tương lai như "Viva la Vida", "Paradise" và "Every Teardrop Is a Waterfall". "The Hardest Part" cũng được xếp hạng tại New Zealand, ÚcÝ.

"The Hardest Part" đã nhận nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình cho phong cách âm nhạc của bài hát. Các đĩa đơn nội địa đã được phát hành ở Canada, Châu ÂuÚc, một phiên bản khác được phát hành tại Đài Loan. Các đĩa đơn quảng bá được phát hành ở cả thị trường Anh quốc và Mỹ. Một phiên bản đĩa đơn quốc tế được thực hiện tại Anh Quốc vào 19 tháng 6 năm 2006.

Sản xuất và sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn trước đó từ X&Y, "Talk" là một sự tri ân ban nhạc Đức Kraftwerk; tương tự "The Hardest Part" đã được Coldplay dự định để bày tỏ sự biết ơn đến với ban nhạc Mỹ R.E.M.[1][2] Khi được hỏi vì sao ca khúc lại bày tỏ sự tri ân ca sĩ hát chính của R.E.M., Michael Stipe, Chris Martin nói: "Tôi đã mất hết lòng tôn trọng với danh tiếng, nhưng tôi vẫn chưa đánh mất hết tất cả lòng tôn trọng. Vì vậy một trong những điều tuyệt vời nhất về sự nổi tiếng là tôi được gặp những người mà mình tôn trọng. Mối quan hệ của chúng tôi gần giống như mối quan hệ giữa một con chó và người chủ của nó vậy. Tôi luôn luôn tôn trọng anh ấy."[1] Ban nhạc cảm nhận rằng ca khúc giống với đĩa đơn "Losing My Religion" của R.E.M. năm 1991.[3][4] "The Hardest Part" đã bị bỏ ra ngoài danh sách bài hát trong album khi ban nhạc gửi một phiên bản đầu của X&Y tới hãng thu âm của họ Parlophone,[3] nhưng sau đó đã được góp mặt sau khi album hoàn thành.[5][6]

Phát hành và đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Coldplay đã phát hành "The Hardest Part" ở cả AnhMỹ vào ngày 3 tháng 4 năm 2006 và là đĩa đơn thứ tư từ album thứ ba của nhóm.[3] Bài hát mặt B của đĩa đơn này là "How You See The World" được thu âm trực tiếp tại Earls Court.[3] Phiên bản quốc tế của đĩa đơn được thực hiện tại Anh vào 19 tháng 6 năm 2006.[3] Các đĩa đơn nội địa cũng được phát hành cho Canada, châu Âu và Úc, chỉ có một phiên bản khác được phát hành ở Đài Loan.[3] Các đĩa đơn quảng bá đã được phát hành ở cả thị trường Anh Quốc và Mỹ.[3] Ca khúc đã đạt tới vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng Billboard Hot Adult Contemporary Tracks.[7] Mặc dù không được xếp hạng trên bảng UK Singles Chart, bài hát vẫn được phát trên sóng các đài phát thanh; đĩa đơn còn được xếp hạng trên các bảng xếp hạng của Ý vào ngày 11 tháng 5 năm 2006 ở vị trí thứ 19 và đã dành một tuần góp mặt trên bảng xếp hạng này.[8] Sau đó ca khúc tiếp tục đạt vị trí 34 trên bảng xếp hạng New Zealand Singles Chart ngày 21 tháng 8 năm 2006.[9] Một bản thu piano trực tiếp của "The Hardest Part" đã xuất hiện trong album trực tiếp của Coldplay năm 2009, LeftRightLeftRightLeft.[10]

Giới phê bình đã có nhiều nhận định khá tích cực về "The Hardest Part". Trong một đánh giá của Entertainment Weekly về album, người cộng tác âm nhạc David Browne đã viết rằng ca khúc "được thấm nhuần với những cảm giác đầy nuối tiếc và để lại dư âm chúng ta đã từng nghe từ ban nhạc trước đây, nhưng với chút điểm nhấn âm nhạc thêm vào".[11] Michael Hubbard của MusicOHM lại viết: "'A Message' và 'The Hardest Part' nghe giống như những mảnh ghép tương đồng, cả hai đều là những ca khúc lớn."[12] Nhà phê bình Kelefa Sanneh của Rolling Stone nhận thấy rằng bài hát có sự "càng về sau càng ít hấp dẫn".[13] Adrien Begrand từ PopMatters viết rằng "The Hardest Part" là "một phần dễ chịu của phong cách pop R.E.M."[14] Cameron Adams của báo Herald Sun lại viết bình luận rằng ca khúc nghe có vẻ giống như The Smiths hòa trộn với REM".[15] David Cheal của tờ The Daily Telegraph nhận định, "...'The Hardest Part' là một bài pop-rock thú vị, đơn giản và có sức hút ngay tức thì".[16]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc cho "The Hardest Part" được quay ngày 3 tháng 3 năm 2006 tại St. Petersburg, Florida. Video đã sử dụng một trích đoạn ngắn từ loạt phim truyền hình Attitudes từng chiếu trên kênh Lifetime từ năm 1985-1991. Chất lượng kĩ thuật số của video đã được cải thiện khi trình chiếu cho Coldplay biểu diễn ca khúc vừa khớp với các hành động xuất hiện trên sân khấu.[17] Diễn viên người Mỹ Linda Dano, người từng đóng vai Felicia Gallan trong vở kịch Another World cũng góp mặt trong video.[17] Các nghệ sĩ múa trên sân khấu là Barbara Moseley (84 tuổi) và Gene Spencer (25 tuổi), màn biểu diễn thật của họ từng được quay vào năm 1990. Video âm nhạc do Mary Wigmore đạo diễn.[3]

Thành viên thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chris Martin - hát chính, piano
  • Guy Berryman - guitar bass
  • Jonny Buckland - guitar
  • Will Champion - trống, hát đệm
  • Brian Eno - keyboards, synthesizer

Định dạng bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Đĩa đơn CD quảng bá
STTNhan đềThời lượng
1."The Hardest Part"4:25
Đĩa đơn CD
STTNhan đềThời lượng
1."The Hardest Part"4:25
2."How You See the World" (trình diễn trực tiếp từ Earls Court)4:16

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng (2006) Vị trí
cao nhất
Ba Lan (ZPAV)[18] 8
Bỉ (Ultratop 50 Flanders)[19] 48
Hà Lan (Single Top 100)[20] 25
Hoa Kỳ (Billboard Adult Contemporary) 37
New Zealand (Recorded Music NZ)[21] 28
Slovakia (IFPI)[22] 15
Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[23] 44
Úc (ARIA)[24] 40
Ý (FIMI)[25] 19

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Scaggs, Austin (11 tháng 8 năm 2005). “Coldplay's Quiet Storm”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2009. Truy cập 9 tháng 2 năm 2016.
  2. ^ Willman, Chris (27 tháng 3 năm 2005). “Summer Music Preview: Coldplay”. Entertainment Weekly.
  3. ^ a b c d e f g h “Coldplay Ezine: Issue 17” (PDF) (bằng tiếng Anh). Parlophone. tháng 4 năm 2006. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  4. ^ “World Exclusive: Coldplay”. Q. tháng 6 năm 2005.
  5. ^ McLean, Craig (28 tháng 5 năm 2005). “The importance of being earnest”. The Guardian. Truy cập 4 tháng 12 năm 2015.
  6. ^ Cohen, Jonathan (4 tháng 4 năm 2005). “Coldplay Finalizes New Album Track List”. Billboard. Truy cập 4 tháng 12 năm 2015.
  7. ^ “Artist Chart History”. Billboard. Truy cập 5 tháng 12 năm 2015.
  8. ^ “Coldplay — The Hardest Part”. Italian Charts. ngày 11 tháng 5 năm 2006. Truy cập 5 tháng 12 năm 2015.
  9. ^ “Coldplay — The Hardest Part”. New Zealand Charts. ngày 11 tháng 8 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2011. Truy cập 5 tháng 12 năm 2015.
  10. ^ “Coldplay Reward Fans With Free Live LP "LeftRightLeftRightLeft". RollingStone. 5 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2016.
  11. ^ Browne, David (ngày 13 tháng 6 năm 2005). “X&Y (2005)”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2012. Truy cập 5 tháng 12 năm 2015.
  12. ^ “The Hardest Part (Coldplay Song) - Release - Reception”. Liquisearch. Truy cập 5 tháng 2 năm 2016.
  13. ^ Sanneh, Kelefa (ngày 16 tháng 6 năm 2005). “Coldplay: X&Y”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2008. Truy cập 6 tháng 12 năm 2015.
  14. ^ Begrand, Adrien (ngày 6 tháng 6 năm 2005). “Coldplay: X&Y”. PopMatters. Truy cập 6 tháng 12 năm 2015.
  15. ^ Adams, Cameron (ngày 2 tháng 6 năm 2005). “'play it again”. Herald Sun. Úc: tr. 105.
  16. ^ Cheal, David (ngày 4 tháng 6 năm 2005). “CDs of the Week”. The Daily Telegraph.
  17. ^ a b The Hardest Part trên YouTube
  18. ^ “Polish Singles Chart |” (bằng tiếng Ba Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2010. Truy cập 14 tháng 1 năm 2016.
  19. ^ "Ultratop.be – Coldplay – The Hardest Part" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập 17 tháng 1 năm 2016.
  20. ^ "Dutchcharts.nl – Coldplay – The Hardest Part" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập 17 tháng 1 năm 2016.
  21. ^ "Charts.nz – Coldplay – The Hardest Part" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập 17 tháng 1 năm 2016.
  22. ^ "ČNS IFPI" (in Slovak). Hitparáda – Radio Top100 Oficiálna” (bằng tiếng Slovak). IFPI Slovakia. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập 14 tháng 1 năm 2016.
  23. ^ "Swisscharts.com – Coldplay – The Hardest Part" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập 17 tháng 1 năm 2016.
  24. ^ "Australian-charts.com – Coldplay – The Hardest Part" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập 17 tháng 1 năm 2016.
  25. ^ "Italiancharts.com – Coldplay – The Hardest Part" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập 17 tháng 1 năm 2016.

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sự thật về Biểu tượng Ông Công, Ông Táo
Sự thật về Biểu tượng Ông Công, Ông Táo
Cứ mỗi năm nhằm ngày 23 tháng Chạp, những người con Việt lại sửa soạn mâm cơm "cúng ông Công, ông Táo"
Nhân vật Agatsuma Zenitsu trong Kimetsu No Yaiba
Nhân vật Agatsuma Zenitsu trong Kimetsu No Yaiba
Agatsuma Zenitsu là một Kiếm sĩ Diệt Quỷ và là một thành viên của Đội Diệt Quỷ
3 nhóm kỹ năng kiến thức bổ ích giúp bạn trở thành một ứng viên sáng giá
3 nhóm kỹ năng kiến thức bổ ích giúp bạn trở thành một ứng viên sáng giá
Hiện nay với sự phát triển không ngừng của xã hội và công nghệ, việc chuẩn bị các kỹ năng bổ ích cho bản thân
Tử Sắc Thủy tổ Ultima (Violet) trong Tensei shitara Slime Datta Ken
Tử Sắc Thủy tổ Ultima (Violet) trong Tensei shitara Slime Datta Ken
Ultima (ウルティマ urutima?), còn được gọi là Violet (原初の紫ヴィオレ viore, lit. "Primordial of Violet"?), là một trong những Primordial gia nhập Tempest sau khi Diablo chiêu mộ cô.