Viva la Vida or Death and All His Friends

Viva la Vida or Death and All His Friends
Album phòng thu của Coldplay
Phát hành11 tháng 6 năm 2008
Thu âmTháng 11 năm 2006–tháng 4 năm 2008
The Bakery, London;
The Magic Shop, NYC;
The Nunnery, Barcelona;
Một nhà thờ tại Barcelona
Thể loại
Thời lượng45:49
Hãng đĩa
Sản xuấtMarkus Dravs, Brian Eno, Jon Hopkins, Rik Simpson
Thứ tự album của Coldplay
X&Y
(2005)
Viva la Vida or Death and All His Friends
(2008)
Mylo Xyloto
(2011)
Đĩa đơn từ Viva la Vida or Death and All His Friends
  1. "Violet Hill"
    Phát hành: 29 tháng 5 năm 2008
  2. "Viva la Vida"
    Phát hành: 7 tháng 6 năm 2008
  3. "Lost!"
    Phát hành: 10 tháng 11 năm 2008
  4. "Strawberry Swing"
    Phát hành: 14 tháng 9 năm 2009

Viva la Vida or Death and All His Friends, còn có tên gọi tắt là Viva la Vida, là album phòng thu thứ tư của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay, phát hành vào ngày 12 tháng 6 năm 2008 bởi hãng Parlophone. Album đặt tên theo một cụm từ tiếng Tây Ban Nha mà dịch ra tiếng Việt có nghĩa là "Cuộc sống muôn năm". Ca từ trong album chủ yếu nói về tình yêu, sự sống, cái chếtchiến tranh.

Các buổi ghi âm album đã diễn ra từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008 với các nhà sản xuất Jon Hopkins, Rik Simpson, Markus DravsBrian Eno. Đây là album đầu tiên của nhóm có Eno tham gia với vai trò nhà sản xuất. Ban nhạc buộc mình thử nghiệm các phong cách mới, bởi như Eno yêu cầu thì mỗi bài hát trong album phải mang những nét đặc trưng riêng biệt, và bản thu âm “Viva la Vida” là phải nổi bật nhất. Theo dự định thì ban nhạc chỉ muốn làm album này với thời lượng 42 phút, tuy nhiên trên thực tế thì thời lượng của album dài hơn dự định. Ngày phát hành album đã bị trì hoãn nhiều lần. Bìa của album Viva la Vida or Death and All His Friends là bức tranh Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân do Eugène Delacroix vẽ.

Viva la Vida đạt thành công vang dội ở cả mặt thương mại lẫn giải thưởng. Năm đĩa đơn được phát hành để thúc đẩy quảng bá album bao gồm "Violet Hill" và "Viva la Vida" (tháng 5 năm 2008), "Lovers in Japan" và "Lost!" (tháng 11 năm 2008) và "Strawberry Swing" (tháng 9 năm 2009). Ca khúc chính "Viva la Vida" trở thành bài hát đầu tiên đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng ở cả Vương quốc Anh lẫn Mỹ. Album cũng đoạt giải Album Rock xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy năm 2009 và còn được đề cử ở hạng mục Album của năm. Đây đồng thời còn là một trong những album bán chạy nhất năm 2008.[1] Tính đến năm 2011, album đã bán hơn 10 triệu bản.[2] Ngày 25 tháng 11 năm 2008 ban nhạc cho tái phát hành Viva la Vida với một ấn bản mới có chứa cả album gốc và EP Prospekt's March.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 10 năm 2006, hai tuần sau khi tay bass Guy Berryman đón chào đứa con gái đầu lòng của mình, khiến anh trở thành thành viên thứ ba của nhóm có con; Guy phát biểu trước truyền thông rằng ban nhạc đang trong giai đoạn nghỉ năm năm. Đứa bé mới ra đời, và thực tế thì Coldplay cũng chẳng có lịch trình cho bất kỳ một chuyến lưu diễn hay buổi thu âm nào trong khoảng thời gian này, khiến cho những người hâm mộ tự hỏi liệu album mới của nhóm sẽ có thể phát hành cho đến tận năm 2010 không. Xua tan những hoài nghi đó, Ambrosia Healy, phát ngôn viên của Capitol Records đã gửi một email tới MTV rằng sẽ không có sự gián đoạn áp đặt nào cả. Tuy nhiên, cô cũng nói rõ rằng Coldplay đang thực sự "tận hưởng một khoảng thời gian nghỉ dài xứng đáng", và không có thời gian biểu nào cho việc theo dõi album thứ ba của nhóm X&Y.[3]

Việc thực hiện album sẽ bắt đầu vào tháng 11 năm 2006 và chỉ bị gián đoạn bởi chuyến lưu diễn Latin America Tour tháng 3 năm 2007.[4]

Việc Chris Martin sử dụng trang phục cách mạng Pháp trong Viva La Vida Tour là mối liên kết tới các chủ đề mang tính cách mạng của album

Nhà sản xuất thu âm và nhạc sĩ nhạc điện tử người Anh Brian Eno đã đảm nhận công việc sản xuất album.[5] Sau chuyến lưu diễn ở Mỹ Latin, Coldplay chuyển đến "The Bakery" để bắt tay vào việc thực hiện album. Các bài hát viết trong thời gian của họ ở phòng thu được miêu tả là ca từ "trừu tượng hơn, nhiều hình ảnh chân thực hơn" và âm nhạc thì "ít thẳng thắn, khôn khéo hơn".[6] Ngoài ra Martin muốn chuyển đổi từ chất giọng thương hiệu falsetto của mình sang một chất giọng thấp hơn.[7] Điều này đã thể hiện trong "Yes", nơi dấu nét chính trong nguồn cảm hứng Velvet Underground của bài hát chính là cao độ giọng hát của Chris ở mức thấp nhất từ trước đến nay, điều này do Brian Eno đề xuất để làm âm thanh trong mỗi bài hát của album mang màu sắc khác biệt. Trong một cuộc phỏng vấn với MTV, tay trống Will Champion phát biểu: "Một trong những vấn đề chính mà chúng tôi đang cố tập trung sửa đổi ở bản thu âm này là thay đổi bản sắc giọng hát, bởi Chris có một chất giọng rất dễ nhận biết".[8] Coldplay đã tạo nên một sự chú ý ở những ảnh hưởng Tây Ban Nha sau khi thu âm ở một số nhà thờ và ở những nước nói tiếng Tây Ban Nha như Mexico ở Bắc Mỹ và Tây Ban Nha ở châu Âu,[9] chẳng hạn như Barcelona.[10] Tuy nhiên điểm nhấn ở đây là ảnh hưởng đó không có trong bất kì âm thanh riêng biệt nào nhưng lại tạo nên cảm giác chung ở các bài hát một cách tổng thể. Trên trang web của nhóm, ban nhạc cũng đã miêu tả việc đưa âm hưởng guitar và thiết bị thu âm cơ bản đến các nhà thờ và thử nghiệm với những loại âm thanh đặc biệt.[11]

Trong suốt quá trình thu âm album, Coldplay đã liên lạc với người hâm mộ thông qua trang web của ban nhạc. Nhóm đã viết nhạc cho "Famous Old Painters" và "Glass of Water" cuối năm 2007 và nhóm đang xem xét cho cả hai bài hát vào album nhưng không được các nhà sản xuất đón nhận, mặc dù vậy sau này nhóm đã thêm hai ca khúc vào danh sách bài hát thay thế của EP Prospekt's March.[12] Album tiếp tục bị trì hoàn lâu hơn, nhưng một bài viết thông báo vào tháng 12 năm 2007 đã đưa ra dấu hiệu rằng giai đoạn thu âm gần như hoàn tất. Bài viết được ký chữ "Prospekt" càng làm tăng thêm tin đồn rằng đây sẽ là tiêu đề của album. Trong khi ban nhạc hoàn thiện thêm hai bài hát ("Lovers in Japan" và "Strawberry Swing"), nhóm phủ nhận rằng tên album được đặt là "Prospekt".[12] Martin còn tiết lộ rằng anh đã đọc rất nhiều cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens trong quá trình thu âm, việc này góp phần đưa hình ảnh gây hiệu ứng thị giác mạnh vào những ca khúc như Violet Hill" và "Cemeteries of London". Trong một buổi phỏng vấn cho kênh truyền hình Latin Mỹ Boomerang năm 2010, Chris nói rằng một nguồn cảm hứng lớn cho quá trình thu âm là tiểu thuyết Những người khốn khổ, chẳng hạn như trên Viva la Vida có ghi chú những chủ đề cách mạng Pháp của cuốn sách trên.[13]

Khi được hỏi vì sao "Lovers in Japan" có một bài hát bổ sung, tay bass Guy Berryman giải thích rằng ban nhạc không thể dàn xếp lý trí của họ, bởi vì nhóm đã thảo luận rằng họ không hề muốn có thêm một ca khúc vào album, và thay vào đó họ muốn giữ cho album thật ngắn gọn với tổng cộng mười bài hát (và thời lượng dự kiến dưới 42 phút).[12] Champion tiếp tục, "chúng tôi chỉ ưa thích có càng ít tiêu đề và thêm nhiều chất liệu. Về mặt tổng thể album đã có hầu hết điều đó, nhưng nó lại là ngắn nhất. Chúng tôi muốn làm cho album gần như bất khả thi đối với bạn để nghe hết nó chỉ trong một lần."[12] Ngoài ra giọng ca Chris Martin còn tiết lộ ban nhạc đã luôn muốn có một tiêu đề bài hát chỉ hai trong một. Anh nói thêm rằng lý do có hai tiêu đề trong danh sách bài hát của Viva la Vida or Death and All His Friends là bởi ca sĩ-người viết nhạc Mỹ Justin Timberlake đã thực hiện điều đó cho album cuối cùng của anh FutureSex/LoveSounds (2006).[14]

Nghệ sĩ violin Davide Rossi đã hợp tác với Coldplay để thu âm tiếng đàn acoustic của anh và tiếng violin điện (sau đó có khả năng đạt mức âm nốt thấp như tiếng bass thẳng đứng, do đó tạo nên một dàn nhạc đầy đủ). Tiếng đàn của anh nổi bật trong sáu ca khúc: Viva la Vida (bài hát sử dụng tiếng đàn của anh nhiều nhất), Violet Hill, Life In Technicolor, 42, Yes và Strawberry Swing. Một số ca khúc họ thu âm với Rossi đã không bị cắt bớt cho album nhưng vẫn được phát hành trong EP Propekt March. Những bài hát đó là: Life in Technicolor ii, Rainy Day và Prospekt March.[15]

Ngày 18 tháng 7 năm 2009, hai bài demo đầu từ phiên thu âm Viva la Vida đã rò rỉ trên mạng internet: ca khúc chưa từng nghe trước đây "Bloodless Revolution" và một phiên bản rất sớm của đĩa đơn trong Viva la Vida "Lovers in Japan". Một ngày sau đó một bài demo khác có tên gọi "St. Stephen" tiếp tục xuất hiện trên mạng.[16] Ngày 20 tháng 7 năm 2009, sáu bài demo khác nữa bị rò rỉ: "The Fall of Man", "The Man Who Swears", "The Man Who Swears II" (thực ra chỉ là phần nửa thứ hai của "The Man Who Swears").[17] Ba ca khúc bị bỏ ngoài danh sách khác sau đó rò rỉ trên mạng internet: một bản nhạc khí của "Lukas" - bài hát chưa phát hành được gửi tới Natalie Imbruglia,[18] "Solid Ground (Until The Water Floats Over)", một bài hát do ban nhạc viết nhạc và trình diễn trực tiếp năm 2006 và một bản nhạc khí của "Famous Old Painters".[19]

Sáng tác và chủ đề

[sửa | sửa mã nguồn]

"Viva la Vida" là một album nhạc rock,[20] còn được mô tả cụ thể hơn như thể loại alternative rock,[21] art rock,[22] pop rock[23]indie pop.[24] Nét đặc trưng của album còn ảnh hưởng bởi dream pop, art popbaroque pop.[25]

Về mặt âm nhạc, Viva la Vida trái ngược hẳn so với những album trước của ban nhạc. Ca khúc chủ đề sử dụng một dàn nhạc, trong khi "Lovers in Japan" nổi bật lên tiếng honky-tonk piano. "Lost!" bị ảnh hưởng bởi nhạc thổ dân, trong khi "Strawberry Swing" có sự pha trộn của nhạc Alfropop. Martin đã mô tả Viva la Vida giống như một hướng đi mới cho Coldplay: một cơ hội từ ba album trước của ban nhạc mà nhóm gọi là "trilogy" (bộ ba).[26] Anh cho biết album thể hiện ít chất giọng falsetto cũng như anh cho phép cao độ giọng hát của mình thấp xuống để đạt quyền ưu tiên.[26] Một số ca khúc, chẳng hạn như "Violet Hill" có những đoạn riff ghita bóp méo và tiếng blue trầm.[26]

Album bao gồm một loạt những chủ đề khác nhau như tình yêu, chiến tranh và các cuộc cách mạng. Không giống như những album trước, "Viva la Vida" có một cách tiếp cận tổng thể hơn, nó giải quyết với ít vấn đề cá nhân hơn và nhiều vấn đề nhân đạo hơn. Những ca khúc như một phiên bản nhạc khí của "Life in Technicolor II" (mà khiến nó không vào danh sách bài hát cuối cùng), "Violet Hill" và "Death and All His Friends" nói về chiến tranh và chính trị. Martin nói rõ ca từ của "Violet Hill" là một bài bình luận trên kênh Fox News.[27] Chris Willman (Entertainment Weekly) cũng coi "Violet Hill" là bài hát biểu tình chống chiến tranh đầu tiên từ ban nhạc.[28] Những ca khúc khác như track đôi "Lovers in Japan/Reign of Love" và "Yes" lại nói về sự bền bỉ và lạc quan.[29]

Coldplay đã sử dụng những trang phục cách mạng Pháp thông qua chuyến lưu diễn Viva la Vida Tour và trong các video sản xuất cho đĩa đơn của album.[30] Chris Martin nói trong một buổi phỏng vấn cho The Sun "Một số người nói album này rất dũng cảm - tôi lại chỉ thấy dường như chúng tôi thật may mắn".[31] Martin còn cho biết một nguồn cảm hứng lớn cho album là cuốn sách Những người khốn khổ của Victor Hugo.[32]

Những tác phẩm của The Beatles rõ ràng là một nguồn cảm hứng lớn xuyên suốt album. Ví dụ như ca khúc "Violet Hill" có liên quan đến album của Beatles Abbey Road, điều này có thể thấy trong tiêu đề bài hát có mượn nhịp điệu từ The Beatles. Ca khúc đặt tên theo con đường tiếp giáp với Đường Abbey ở London.[33]

Thiết kế đồ họa

[sửa | sửa mã nguồn]
Một vài bức tranh sản xuất trong quá trình sáng tạo hình minh họa của album đã được sử dụng trên các màn hình của Viva la Vida Tour.

Những bức ảnh minh họa cho Viva la Vida or Death and All His Friends do Coldplay và Tappin Gofton thiết kế; Tappin từng là người thiết kế bìa X&Y ba năm trước. Phong cách thiết kế cho album đã mất nhiều tháng trời mới hoàn thành; đầu tiên nó phát triển từ một tập hợp những bản phác thảo quy mô lớn và những bức tranh in đầy hàm ý. Những ca từ và tiêu đề bài hát được táo bạo vẽ lên các bản đồ, cuốn sách, bản sao của những bức tranh cũ, những tờ báo và các loại vật dụng đã qua sử dụng. Công việc cuối cùng là chụp hình và một vài kiểu in bổ sung do máy tính thêm vào sau đó.[34]

Viva la Vida giảm bớt kích cỡ từ bức tranh Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân của Eugène Delacroix năm 1830.

Hầu hết các ca khúc từ album và EP Prospekt's March đều có một hoặc hai hình ảnh đồ họa. Trên tập sách nhỏ của album có tới chín bức tranh do ban nhạc thực hiện. Đầu tiên là bản đồ của Brazil màu xanh bao gồm một phần của ca từ trong "Glass of Water" sơn màu trắng. Tuy nhiên hình ảnh này sau được làm lại và sử dụng làm ảnh minh họa cho bìa đĩa đơn "Lost!". Bức hình thứ hai trong tập sách minh hoạ cho ca khúc "42". Bức hình bao gồm một phần trong quá trình sáng tác bài hát viết trên nền màu đỏ, cùng với một sọc màu đen bao phủ trung tâm. Bức hình thiết kế cho "Cemeteries of London" gồm có một hỉnh ảnh minh họa của London, tiêu đề bài hát và một nền màu tím hỗn độn. Một phần của ca từ được sử dụng trên đỉnh bức hình. Bức hình thiết kế cho "Reign of Love" gồm có các ca từ của bài hát vẽ trên một nền xanh lá cây. Ở giữa tập sách, hầu hết ca từ của album hiển thị chính giữa một vật thể không thể nhìn ra. Bức hình minh họa cho "Yes" bao gồm một trái tim bị xé và một dòng lời từ bài hát, "Chúa không dẫn tôi đến sự cám dỗ" ("Lord lead me not into temptation"). Bức tranh kế tiếp bức hình của bài hát có chứa ca từ của "Viva la Vida" sơn màu đen in trên nền xanh da trời, những ca từ cho ca khúc cũng xuất hiện trên bức hình. Trang cuối trong tập sách rất giản dị: một chữ số La Mã của số 7 sơn màu xanh lá cây và đỏ in trên nền vàng.[35] Ban nhạc đã trình chiếu một số bức hình trên màn hình trong chuyến lưu diễn toàn cầu Viva la Vida Tour hoặc sử dụng trên những quả khí cầu lớn bên trong các địa điểm gặp gỡ.[36]

Có ba trang bìa cho album. Bìa trước dành cho ấn bản chuẩn là một bức tranh của Eugène Delacroix, có tên Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân, được thay đổi một chút cho bìa bằng cách sử dụng một chiếc bút lông sơn trắng để vẽ "VIVA LA VIDA".[35] Bìa in cho EP Prospekt's March cũng sử dụng dòng chữ tương tự một lần nữa nhưng sơn màu vàng và to hơn trên một nền đen trơn. Bìa cho EP Prospekt's March bao gồm một bức tranh khác của Eugène Delacroix (Trận Poitiers), và có dòng "Prospekt's March" vẽ trên bức tranh tương tự như cách "Viva la Vida" vẽ trên bức Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân cho bìa album chuẩn.[37] Bìa sử dụng cho ấn bản Asian Tour có chữ "VIVA" sơn sọc đỏ đen đối lập với nền trắng.[38] Bức tranh tương tự này từng được sử dụng làm ảnh đại diện cho trang web chính thức của Coldplay trong một thời gian, nó do ban nhạc tạo ra và do tay trống Will Champion sơn trên tường của phòng thu gọi là "The Bakery".[39]

Quảng bá và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Logo từ thời đại Viva La Vida

Trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí Rolling Stone, giọng ca Chris Martin đã công bố ngày phát hành album và tiêu đề của nó, Viva la Vida, một cụm từ Tây Ban Nha mà dịch sang tiếng Việt nghĩa là "một cuộc sống dài lâu".[40] Nó lấy tên từ một bức tranh của Frida Kahlo, một nghệ sĩ người Mexico nổi tiếng vào thế kỷ 20.[41] Bìa album là bức tranh năm 1830 của Eugène Delacroix có tên Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân. Ngày 10 tháng 4 năm 2008, một mục tạp chí mới xuất hiện trên trang web của ban nhạc, công bố danh sách bài hát và ngày phát hành cũng như gợi ý về những ca khúc mới sẽ phát hành trước khi ra mắt album.[42] Ban nhạc xác nhận "Violet Hill" là đĩa đơn đầu tiên từ Viva la Vida với ngày phát hành 5 tháng 5.[43] Tháng 5 năm 2008 Coldplay đã chiếu một đoạn quảng cáo trên iTunes của Apple với ca khúc "Viva la Vida".[44]

Trang web chính thức của ban nhạc được cập nhật vào cuối tháng tư để tiết lộ hình minh họa chính thức của "Viva la Vida", cũng nhu bản miễn phí của đĩa đơn "Violet Hill", trở nên có sẵn để tải về trong một tuần từ 29 tháng 4 năm 2008.[45]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các ca khúc được viết bởi Guy Berryman, Jonny Buckland, Will ChampionChris Martin, trừ phần ghi chú[46][47] Bài 5, 6 và 10 gồm hai bài riêng lẻ không được thêm vào danh sách.[48].

STTNhan đềThời lượng
1."Life in Technicolor" (Berryman/Buckland/Champion/Martin/Hopkins)2:30
2."Cemeteries of London"3:21
3."Lost!"3:55
4."42"3:57
5."Lovers in Japan / Reign of Love" (3:57/2:56)6:51
6."Yes" (4:04 / includes hidden song "Chinese Sleep Chant" 3:01)7:06
7."Viva la Vida"4:01
8."Violet Hill"3:42
9."Strawberry Swing"4:09
10."Death and All His Friends" (3:30 / includes hidden song "The Escapist" (Berryman/Buckland/Champion/Martin/Hopkins) 2:46)6:18
Tổng thời lượng:45:49
Bonus tracks
STTNhan đềThời lượng
11."Lost?" (Japan and iTunes)3:40
12."Lovers in Japan" (Acoustic Version) (iTunes pre-order)3:55
13."Death Will Never Conquer" (Japanese release of Prospekt's March edition)1:16

Phiên bản tháng ba của Prospekt

[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản tháng ba bao củaViva la Vida: Prospekt gồm Prospekt's March EP.

Tour edition DVD

[sửa | sửa mã nguồn]

Ở một vài nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc... một phiên bản DVD đặc biệt đã được phát hành gồm 5 đoạn phim chính thức từ Viva la Vida và từ phim"Life in Technicolor II", từ Prospekt's March EP.[49]

DVD
STTNhan đềThời lượng
1."Violet Hill" 
2."Viva la Vida" 
3."Lost!" 
4."Lovers in Japan" 
5."Life in Technicolor II" 
6."Strawberry Swing" 

Bảng xếp hạng và chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng xếp hạng cuối năm

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng (2008) Vị trí
Áo[106] 8
Đức[107] 6
Hy Lạp[108] 2
Vương quốc Anh[109] 5
Xếp hạng (2009) Vị trí
Đức[110] 49
Thụy Sĩ[111] 45
Vương quốc Anh[112] 75
Xếp hạng (2011) Vị trí
Vương quốc Anh[113] 175

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Ngày Nhãn hiệu Định dạng Số Catalog
Nhật Bản 11 tháng 6 năm 2008[114] EMI Music Japan CD TOCP-66805 / 49880 068632 5 5
Anh quốc 12 tháng 6 năm 2008 Parlophone CD 5 099921 211409
LP 50999 212114 1 6
Brazil 12 tháng 6 năm 2008 EMI CD
châu Âu ngày 13 tháng 6 năm 2008 Capitol CD
Úc và New Zealand 14 tháng 6 năm 2008 EMI CD 2169640
Thế giới

(Unless specified otherwise)

16 tháng 6 năm 2008 EMI CD
Canada ngày 17 tháng 6 năm 2008 Capitol CD 509992 26126 0 1
Hoa Kỳ CD 50999 2 16886 0 7
LP 50999 2 16965 1 0

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “List of the top-selling music of 2008”. The Telegraph. 29 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2016.
  2. ^ “Coldplay's 'Mylo Xyloto' to beat Adele's '21' in first-week sales? - Music News - Digital Spy”. Digitalspy.ie. ngày 25 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  3. ^ Montgomery, James (ngày 2 tháng 10 năm 2006). “No Five-Year Hiatus For Coldplay — But They Are Taking A Break”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2012. Truy cập 19 tháng 2 năm 2016.
  4. ^ “Coldplay Mixing Next Studio Album”. Billboard. ngày 22 tháng 2 năm 2008. Truy cập 19 tháng 2 năm 2016.
  5. ^ Cohen, Jonathon (ngày 26 tháng 1 năm 2007). “Coldplay drafts Eno to produce fourth album”. Billboard. Truy cập 12 tháng 2 năm 2016.
  6. ^ “Coldplay”. Coldplay.com via Wayback Machine. ngày 20 tháng 4 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2007. Truy cập 12 tháng 2 năm 2016.
  7. ^ Serpick, Evan (ngày 3 tháng 4 năm 2008). “Coldplay Break the Mold” (1049). Rolling Stone: 14. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  8. ^ “Coldplay Give Track-By-Track Tour Of Viva La Vida, Explain Handclaps, Tack Pianos And The Number 42 - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. ngày 9 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2010. Truy cập 12 tháng 2 năm 2016.
  9. ^ Tyrangiel, Josh (ngày 9 tháng 6 năm 2008). “Coldplay, Viva la Vida”. 171 (67). Time: 23. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  10. ^ Clark, Jason (ngày 30 tháng 3 năm 2008). “Summer Music Preview” (994). Entertainment Weekly: 36. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  11. ^ “Old Sound New Sound”. artnewsnviews.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2016. Truy cập 12 tháng 2 năm 2016.
  12. ^ a b c d “Coldplay Viva la Vida”. Q (Bauer Media Group). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2008. Truy cập 12 tháng 2 năm 2016.
  13. ^ “Coldplay - Boombox All Access - 2/3”. YouTube. ngày 14 tháng 2 năm 2010. Truy cập 12 tháng 2 năm 2016.
  14. ^ “Key Tracks — Coldplay”. The Sun: 57. ngày 13 tháng 6 năm 2008.
  15. ^ “Davide Rossi Echo Beach” (PDF). Echo Beach. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  16. ^ “Two Coldplay demos leak online (Bloodless Revolution, Lovers in Japan)”. Coldplaying.com. coldplaying.com. ngày 18 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2016. Truy cập 4 tháng 6 năm 2016.
  17. ^ “Viva La Vida Or Death And All His Friends - Coldplay”. lyricshall.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2016. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  18. ^ Coldplay - Lukas (Unreleased Song given to Natalie Imbruglia) trên YouTube
  19. ^ Coldplay - Famous Old Painters - Full song Instrumental - Exclusive Unreleased song trên YouTube
  20. ^ Downer, Adam (ngày 9 tháng 6 năm 2008). “Coldplay - Viva la Vida (staff review)”. Sputnikmusic. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  21. ^ “CD Review: Coldplay's 'Viva la Vida or Death and All His Friends'. SoundandVision. ngày 26 tháng 6 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  22. ^ DeVille, Chris (ngày 13 tháng 3 năm 2014). “The Week In Pop: It's Time We All Agreed That Coldplay Is Great”. Stereogum. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  23. ^ “Coldplay, Whistling Toward the Middle of the Road”. New York Sun. ngày 17 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2015. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  24. ^ “Drowned In Sound - Mylo Xyloto review”. 22 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2015. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  25. ^ “Later With Alexander Frost - Coldplay”. ngày 21 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  26. ^ a b c Serpick, Evan (ngày 27 tháng 2 năm 2008). “Coldplay at Work on "Something Different" for Upcoming Album – Chris Martin talks about trilogy and change”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  27. ^ Stelter, Brian (12 tháng 6 năm 2006). “Coldplay Lyrics Take a Swipe at Bill O'Reilly”. The New York Times. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  28. ^ Willman, Chris (ngày 13 tháng 6 năm 2008). “Viva La Vida Review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  29. ^ “Viva la Vida or Death and All His Friends-Album Review”. Plugged In. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  30. ^ “Coldplay Raise Eyebrows With Sgt. Pepper's Military Look - So What's Behind The Costumes? - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. 16 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập 18 tháng 2 năm 2016.
  31. ^ Swift, Jacqui (ngày 12 tháng 6 năm 2008). “Backlash will never go away”. The Sun. London. Truy cập 18 tháng 2 năm 2016.
  32. ^ “Boombox All Access - Coldplay”. Boombox. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2011.
  33. ^ Halperin, Shirley (ngày 12 tháng 6 năm 2008). “Coldplay Talk 'Viva La Vida'. Entertainment Weekly. tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập 18 tháng 2 năm 2016.
  34. ^ “Viva La Vida - Album Artwork & Graphic Design”. RGS Melted Productions. Truy cập 19 tháng 2 năm 2016.
  35. ^ a b (2008) Artwork for Viva la Vida or Death and All His Friends by Coldplay. Capitol (50999 2 16886 0 7).
  36. ^ “Coldplay goes interstellar - Project - Digital Arts”. Digitalartsonline.co.uk. 19 tháng 10 năm 2009. Truy cập 21 tháng 2 năm 2016.
  37. ^ (2008) Artwork for Prospekt's March by Coldplay. Capitol (D174457)
  38. ^ (2009) Artwork for Viva la Vida or Death and All His Friends: Asian Tour edition by Coldplay. EMI Music Japan (49880 068632 5 5)
  39. ^ Slender Fungus (ngày 1 tháng 4 năm 2009). “Coldplay Oracle: How did the idea for the VIVA logo come up? Was it first painted on Chris' piano or used as the site's logo? Who's the mastermind behind it?”. Coldplay.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập 21 tháng 2 năm 2016.
  40. ^ “Viva La Vida by Coldplay Songfacts”. Truy cập 22 tháng 2 năm 2016.
  41. ^ “Coldplay name album with Frida Kahlo's help”. NME. ngày 19 tháng 3 năm 2008. Truy cập 21 tháng 2 năm 2016.
  42. ^ “Coldplay/ Viva la Vida or Death & All His Friends - Lowyat.NET”. 27 tháng 9 năm 2008. Truy cập 21 tháng 2 năm 2016.
  43. ^ “News Ticker: Guns N' Roses, Britney Spears, Coldplay”. Rolling Stone. 21 tháng 4 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2008. Truy cập 21 tháng 2 năm 2016.
  44. ^ Coldplay - Apple iTunes Viva La Vida trên YouTube
  45. ^ “Coldplay song downloaded 2m times”. BBC News_Entertainment. 6 tháng 5 năm 2008. Truy cập 17 tháng 3 năm 2016.
  46. ^ “Coldplay Indulges Experimentation On Fourth Album”. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2008.
  47. ^ “Jon Hopkins”. ngày 6 tháng 6 năm 2008.
  48. ^ Montgomery, James (ngày 9 tháng 6 năm 2008). “Coldplay Give Track-By-Track Tour Of Viva La Vida, Explain Handclaps, Tack Pianos And The Number 42”. MTV.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  49. ^ Slender Fungus (ngày 8 tháng 6 năm 2010). “Coldplay Oracle: What is the person unwrapping in this video? It looks to be a fake live DVD but I'm not sure... seems like a lot of work just to trick a few people. Any idea as to what it is?”. Coldplay.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  50. ^ “Ranking Semanal desde 15/06/2008 hasta 21/06/2008” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  51. ^ “Australian Charts - Coldplay - Viva la vida Or Death And All His Friends”. Australian-charts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  52. ^ “Austria Top 40 - Coldplay - Viva la vida Or Death And All His Friends” (bằng tiếng Đức). Austriancharts.at. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  53. ^ “Charts Vlaanderen - Coldplay - Viva la vida Or Death And All His Friends” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  54. ^ “Charts Belgique Francophone - Coldplay - Viva la vida Or Death And All His Friends” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  55. ^ “Hits of the World - Brazil”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 26 tháng 7 năm 2008. tr. 74. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  56. ^ “Coldplay Album & Song Chart History - Canadian Albums”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  57. ^ “TOP50 Prodejní - Coldplay - Viva La Vida” (bằng tiếng Séc). International Federation of the Phonographic Industry of the Czech Republic. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  58. ^ “IFPI Danmarks Officielle Hitliste - Coldplay - Viva la vida Or Death And All His Friends”. Danishcharts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  59. ^ “Danish Charts - Coldplay - Viva la Vida Or Death And All His Friends” (bằng tiếng Hà Lan). Dutchcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  60. ^ “European Albums - Week of ngày 5 tháng 7 năm 2008”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  61. ^ “Finnish Chart - Coldplay - Viva la Vida Or Death And All His Friends”. Finnishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  62. ^ “Classements - Coldplay - Viva la Vida Or Death And All His Friends” (bằng tiếng Pháp). Lescharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  63. ^ “Album - Coldplay, Viva la vida Or Death And All His Friends” (bằng tiếng Đức). Charts.de. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  64. ^ Paul Sexton (ngày 17 tháng 7 năm 2009). “Coldplay's 'Viva' Continues Euro Chart Hot Streak”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  65. ^ “Irish Music Charts Archive - Top 75 Artist Album, Week Ending ngày 26 tháng 6 năm 2008”. Chart-track.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  66. ^ “Italian Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Italiancharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  67. ^ コールドプレイのアルバム売り上げランキング (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  68. ^ “Keresés lista és dátum szerint - 2008. 39. hét - 2008. 09. 22. - 2008. 09. 28. - No.: 798” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  69. ^ “Mexican Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Mexicancharts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  70. ^ “New Zealand Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Charts.org.nz. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  71. ^ “VG-lista - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Norwegiancharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  72. ^ “OLiS - 30 czerwca 2008 - Sprzedaż w okresie 16.06.2008 - 22.06.2008” (bằng tiếng Ba Lan). OLis. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  73. ^ “Portuguese Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Portuguesecharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  74. ^ “Spanish Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Spanishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  75. ^ “Swedish Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)”. Swedishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  76. ^ “Swiss Charts - Coldplay - Viva la Vida or Death And All His Friends (album)” (bằng tiếng Đức). Hitparade.ch. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  77. ^ “2008 Top 40 Official UK Albums Archive 28th June 2008”. Official Charts Company. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  78. ^ “Coldplay Album & Song Chart History - Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  79. ^ “Discos de Oro y Platino - Coldplay” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2006.
  80. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2009 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  81. ^ “Chứng nhận album Áo – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  82. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2009” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  83. ^ “Chứng nhận album Canada – Coldplay – Viva la Vida” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2012.
  84. ^ “Prensario Música - EMI Music Chile: Coldplay presenta su quinto álbum Mylo Xyloto” (PDF). Prensario Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 1 tháng 10 năm 2011. tr. 77. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  85. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012. Scroll through the page-list below until year 2010 to obtain certification.
  86. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  87. ^ “Chứng nhận album Pháp – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  88. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Coldplay; 'Viva la Vida or Death and All His Friends')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  89. ^ “Ελληνικό Chart – Top 50 Ξένων Aλμπουμ” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  90. ^ PHẢI CUNG CẤP certyear CHO Ireland CHỨNG NHẬN.
  91. ^ “Chứng nhận album Ý – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Viva la Vida or Death and All His Friends" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  92. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012. Chọn 2008年09月 ở menu thả xuống
  93. ^ “Certificaciones 2010”. AMPROFON (bằng tiếng Tây Ban Nha). Facebook. 2010. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  94. ^ “Overzicht Goud/Platina Audio” (bằng tiếng Hà Lan). NVPI. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  95. ^ MỤC id (chart number) CHO CHỨNG NHẬN NEW ZEALAND.
  96. ^ Lỗi biểu thức: Dư toán tử <=
  97. ^ “Top AFP - Semana 22 de 2011” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Artistas-espectaculos.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
  98. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  99. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2008” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  100. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Viva la Vida or Death and All His Friends')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  101. ^ “MÜ-YAP Bağlantılı Hak Sahibi Fonogram Yapımcıları Meslek Birliği”. Mu-yap.org. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  102. ^ Myers, Justin (ngày 6 tháng 2 năm 2016). “Coldplay's Official Top 20 biggest selling songs revealed!”. Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2016.
  103. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Viva la Vida or Death and All His Friends vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  104. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Coldplay – Viva la Vida or Death and All His Friends” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  105. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2011”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2012.
  106. ^ “oe3.ORF.at / LongplayCharts 2008”. Charts.orf.at. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  107. ^ “Album Jahrescharts 2008”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2010. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  108. ^ “Annual Chart - Year 2008 Top 50 Ξένων Aλμπουμ”. IFPI Greece (bằng tiếng Hy Lạp). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập 13 tháng 2 năm 2016.
  109. ^ “UK Singles Year-End 2011” (PDF). Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2008.
  110. ^ “:: MTV | Album Jahrescharts 2009 | charts”. Mtv.de. ngày 29 tháng 12 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  111. ^ “Swiss Year-End Charts 2009”. Media Control. Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
  112. ^ “UK Singles Year-End 2011” (PDF). Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2008.
  113. ^ “UK Singles Year-End 2011” (PDF). Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2008.
  114. ^ “Coldplay - Viva La Vida Or Death And All His Friends: Release date in Japan”. Discogs. ngày 11 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Yui (結ゆい) là con gái thứ tám của thủ lĩnh làng Đá và là vợ của Gabimaru.
Yoimiya tệ hơn các bạn nghĩ - Genshin Impact
Yoimiya tệ hơn các bạn nghĩ - Genshin Impact
Để cân đo đong đếm ra 1 char 5* dps mà hệ hỏa thì yoi có thua thiệt
Game slot là game gì? Mẹo chơi Slot game
Game slot là game gì? Mẹo chơi Slot game
Game slot hay Slot game, hay còn gọi là máy đánh bạc, máy xèng game nổ hũ, cách gọi nào cũng được cả
Thiên tài Fontaine và cái kết chưa phải kết thúc
Thiên tài Fontaine và cái kết chưa phải kết thúc
Đây là câu chuyện của một lớp người của cỡ 500 năm trước, nối tiếp câu chuyện “Lịch sử và sự kiện đáng nhớ của Fontaine”