Viva la Vida

"Viva la Vida"
Đĩa đơn của Coldplay
từ album Viva la Vida or Death and All His Friends
Mặt B"Death Will Never Conquer"
Phát hành25 tháng 5 năm 2008 (2008-05-25)
Thu âm2007–08
Thể loạiBaroque pop[1]
Thời lượng
  • 4:01 (phiên bản album)
  • 3:45 (hiệu đỉnh radio)
Hãng đĩa
Sáng tác
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của Coldplay
"Violet Hill"
(2008)
"Viva la Vida"
(2008)
"Lovers in Japan"
(2008)
Video âm nhạc
"Viva la Vida" trên YouTube
"Viva la Vida" (Alternative Version) trên YouTube

"Viva la Vida" (/ˈvvə lə ˈvdə/; tiếng Tây Ban Nha: [ˈbiβa la ˈβiða]) là một ca khúc của ban nhạc alternative rock nước Anh Coldplay. Bài hát do tất cả các thành viên của nhóm sáng tác cho album phòng thu thứ tư của họ Viva La Vida or Death and All His Friends (2008) và được phát hành làm đĩa đơn mở đầu cho album. Trong album, bài hát này là phần tiếp nối với đĩa đơn "Violet Hill" sau đó. "Viva la Vida" trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Cuộc đời dài lâu". Ca từ của bài hát có chứa đựng những tài liệu tham khảo lịch sử và Kitô giáo, phần nhạc được xây dựng quanh một tiếng nhạc giao hưởng lặp đi lặp lại trong trạng thái hòa âm với tiếng đàn piano diễu hành và nền tiếng trống lục lạc.

Bài hát đã được phát hành vào ngày 12 tháng 6 năm 2008 làm đĩa đơn thứ hai của album, nhận được những đánh giá tốt và đạt thành công đáng kể về thương mại. "Viva la Vida" đã đạt vị trí quán quân trên cả UK Singles Chart Anh quốc và Billboard Hot 100 Mỹ, là đĩa đơn quán quân đầu tiên của nhóm ở thị trường Mỹ và Vương quốc Anh. Bài hát đã đoạt giải Grammy cho Bài hát của nămTrình diễn Song ca/Nhóm nhạc giọng pop xuất sắc nhất năm 2009. Đây cũng là ca khúc thứ sáu trong lịch sử nhạc số đạt được hơn 4 triệu lượt download.[2]

Thông tin

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên gọi tiếng Tây Ban Nha của bài hát "Viva la Vida" bắt nguồn từ tên một bức vẽ của họa sĩ người Mexico Frida Kahlo vào thế kỉ XX. Trong tiếng Tây Ban Nha "viva" là một thành ngữ dùng để ngợi ca ai đó hoặc điều gì đó,[3] vì vậy "Long live life" là một bản dịch chính xác và bức tranh phản ánh sự mỉa mai của nghệ sĩ về việc tán dương cuộc sống trong khi lại đau khổ về thể xác.[4] Khi được hỏi về tiêu đề của album, đề cập đến sức mạnh của Frida Kahlo như chịu đựng bệnh bại liệt, một chiếc xương sống bị gãy và một thập kỉ của nỗi đau mãn tính, Chris Martin nói: "Tất nhiên là cô ấy đã trải qua nhiều nỗi đau, và rồi cô bắt đầu một nỗi đau lớn trong nhà của mình mà nói 'Viva la Vida', tôi chỉ yêu tính dũng cảm của nó".[5] "Viva la Vida" dịch sang tiếng Anh có nghĩa là "Long live life" (Cuộc đời dài lâu).[5]

Trong quá trình sản xuất album, "Viva la Vida" là một trong những bài hát đã gây tranh cãi trong nội bộ nhóm về việc lựa chọn phiên bản nào để phát hành. Trong một cuộc phỏng vấn, giọng ca chính Chris Martin có nói, "... chúng tôi đã thực hiện nhiều phiên bản khác nhau và cuối cùng đã dừng lại ở phiên bản này."[6]

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Không giống với nhạc nền của những bài hát khác của Coldplay với piano hoặc guitar là nhạc cụ chính, nhạc nền chính của "Viva la Vida" là một chuỗi âm lặp lại (ngay từ đầu bài hát), cùng với tiếng trống, guitar bass và các nhạc cụ gõ đều đặn (bao gồm timpanichurch bell). Tất cả nhạc nền được thực hiện bởi tay violin Davide Rossi, người hợp tác với nhóm trong suốt quá trình thực hiện album.[7] Bài hát được viết ở khóa La giáng trưởng, tempo 137 nhịp/phút.[8] Dù Coldplay được cho là một ban nhạc alternative rock, "Viva la Vida" lại là một ca khúc baroque pop và chamber pop.[9]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
Chris Martin biểu diễn "Viva la Vida" trong Viva la Vida Tour của nhóm năm 2008.

Lúc đầu, "Viva la Vida" chỉ có thể mua bằng cách đặt trước trên iTunes album Viva la Vida or Death and All His Friends, điều này dẫn đến việc nó không đủ tiêu chuẩn có mặt trên UK Singles Chart.[10] Đến ngày 25 tháng 5 năm 2008, bài hát được phát hành chỉ dưới dạng nhạc số tải về, và 1 đĩa CD ở châu Âu ngày 29 tháng 7 năm 2008 nhân dịp video bài hát được phát hành. "Viva la Vida" đã trở thành ca khúc bán chạy nhất trên iTunes năm 2008.[11] Từ ngày 24 tháng 2 đến 24 tháng 12 năm 2008, một bản phối lại chính thức của bài hát ("Thin White Duke Mix") đã được đăng trên website chính thức của nhóm.

Coldplay đã biểu diễn trực tiếp bài hát trong tập "Million Dollar Maybe" của bộ phim Mỹ nổi tiếng The Simpsons. Bài hát cũng đã được sử dụng trong chiến dịch quảng cáo iPod của Apple Inc..[12][13] Coldplay biểu diễn trực tiếp lần đầu ca khúc này trong MTV Movie Awards 2008.[14][15] Kể từ đó, bài hát bắt đầu xuất hiện rộng rãi trên các phương tiện truyền thông,[16] trong đó có nhạc phim vở soap opera Brasil A Favorita, góp phần giúp "Viva la Vida" được xếp hạng ở Brasil, nơi telenovela này được lên sóng.[17]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

"Viva la Vida" đã được đề cử cho "Thu âm của năm", đoạt giải "Bài hát của năm" và "Ban nhạc thể hiện nhạc pop xuất sắc nhất" tại Giải Grammy năm 2009.[18][19] Bài hát cũng đoạt giải thưởng Ivor Novello Award cho "Đĩa đơn của nghệ sĩ người Anh bán chạy nhất".[20] Bài hát này cũng nằm trong danh sách thường niên "100 Ca khúc hay nhất" của Rolling Stone năm 2008, tại vị trí số 9.[21]

Thành tích xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

"Viva la Vida" là ca khúc thành công nhất của Coldplay cho đến nay. Ngoài có được số lượt tải về lớn, bài hát cũng đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của nhóm và đĩa đơn top 10 thứ hai của họ trên bảng xếp hạng này.[22][23] Đây cũng là ca khúc đầu tiên của một nghệ sĩ người Anh đạt vị trí quán quân trên Billboard Hot 100 kể từ sau "Wannabe" của Spice Girls năm 1996,[24] cũng là ca khúc đầu tiên bởi một ban nhạc rock anh đạt vị trí quán quân kể từ ca khúc "Can't Help Falling in Love" của UB40 năm 1993. Dù đã có doanh số nhạc số cao từ trước,[22][23] sau khi được phát hành chính thức, bài hát vẫn lọt vào top 10 ở radio Mỹ, đạt đến vị trí số 8 trên Hot 100 Airplay[25] và đây cũng là vị trí cao nhất của họ trên bảng xếp hạng này từ trước đến nay.

"Viva la Vida" cũng là ca khúc đầu tiên dẫn đầu cả hai bảng xếp hạng Hot 100 và Modern Rock Tracks[26] kể từ "How You Remind Me" của Nickelback năm 2001. Trên bảng xếp hạng Billboard Adult Top 40, đây là đĩa đơn quán quân đầu tiên của nhóm, cũng là đĩa đơn đầu tiên của hãng Capitol Records đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng.[27] Đĩa đơn đã đạt chứng nhận 3 đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.[28] Đến tháng 1 năm, nó đã bán được 6 triệu bản ở Mỹ.[29]

Đĩa đơn cũng đạt thành công tương tự ở Vương quốc Anh. Cho dù lúc đầu bài hát không đủ tiêu chuẩn để có mặt trong các bảng xếp hạng ở Anh do chỉ có thể được mua trên iTunes, ca khúc vẫn đạt đến vị trí quán quân của UK Singles Chart sau khi album được phát hành, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Coldplay đạt vị trí quán quân ở đây.[30]

Tại Canada, đĩa đơn xuất hiện lần đầu trên Canadian Hot 100 ngày 24 tháng 5 ngay ở vị trí số 4, tuy nhiên nó đã không đạt được thứ hạng cao hơn.[31] Nó cũng là ca khúc đạt thứ hạng cao nhất của Coldplay tại Úc, với vị trí số 2.

Ở Tây Ban Nha, đĩa đơn đạt được vị trí số 2 và đạt chứng nhận 2 đĩa Bạch kim với trên 80.000 bản bán được. Bài hát này cũng được chơi nhiều trên các sóng phát thanh Tây Ban Nha.

Cáo buộc bản quyền

[sửa | sửa mã nguồn]
Will Champion thể hiện "Viva la Vida" trong Viva la Vida Tour.

Ca khúc "Viva la Vida" của Coldplay bị cáo buộc là đạo nhạc từ ca khúc "The Songs I Didn't Write" bởi một ban nhạc alternative Mỹ có tên Creaky Boards.[32] Thành viên Andrew Hoepfner của Creaky Boards nói rằng Chris Martin đã nghe họ hát ca khúc này tại một live show tháng 10 năm 2007.[33] Ban nhạc này đã thực hiện một video clip, trong đó so sánh một đoạn nhạc so sánh hai bài hát.[33] Coldplay đã phủ nhận cáo buộc trên, và phát ngôn viên Murray Chambers của nhóm nói rằng Martin đã ở AIR Studios, Luân Đôn vào thời gian đó.[34] Hơn nữa, Coldplay đã thu âm một bản demo của "Viva la Vida" vào tháng 3 năm 2007, rất lâu trước khi Creaky Boards biểu diễn nó vào tháng 10 năm đó.[33] Creaky Boards sau đó đã rút lại cáo buộc và nói thêm rằng, cả hai ca khúc có thể đã cùng lấy cảm hứng từ trò chơi The Legend of Zelda.[34]

Ngày 4 tháng 12 năm 2008, Joe Satriani đã đệ đơn kiện Coldplay tại Los Angeles về vấn đề bản quyền ca khúc này.[35] Anh nói "Viva la Vida" lấy phần lớn nhạc từ "If I Could Fly" trong album Is There Love in Space? của anh.[36] Ban nhạc cũng phủ nhận điều này và cho rằng sự tương tự này là "hoàn toàn ngẫu nhiên".[37] Ngày 14 tháng 9 năm 2009, đơn kiện bị bác bỏ bởi Thẩm phán Liên Bang quận miền trung California.[38]

Tháng 5 năm 2009, Yusuf Islam nói rằng bài hát này rất giống với ca khúc "Foreigner Suite" của anh (được thu âm với nghệ danh trước đó của anh, Cat Stevens).[39] Tay trống của Coldplay Will Champion đã phủ nhận tuyên bố này và nói: "Chúng tôi có thể tự tin nói rằng chúng tôi không làm điều gì sai cả."[40] Sau đó vào tháng 6 năm 2009, Islam đã nói rằng, "họ đã sao chép bài hát này nhưng tôi không nghĩ là họ cố ý. Tôi không muốn họ nghĩ rằng tôi đang tức giận với họ. Tôi sẵn sàng ngồi xuống, uống một tách trà với họ và để họ biết rằng điều đó chẳng sao cả".[41]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc chính thức cho "Viva la Vida" do Hype Williams đạo diễn và đã có mặt trên website chính thức của Coldplay ngày 1 tháng 8 năm 2010.[42] Video chiếu cảnh ban nhạc biểu diễn trên khung nền mờ bức tranh Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân của Eugène Delacroix. Tính đến nay video đã có trên 569 triệu lượt xem trên YouTube.

Một phiên bản khác, thứ hai của "Viva la Vida" đã được quay tại The Hague, Hà Lan, do Anton Corbijn đạo diễn và đã được phát hành song song với phiên bản chính thức.[43]

Phiên bản hát lại

[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản Darin

[sửa | sửa mã nguồn]
"Viva la Vida"
Đĩa đơn của Darin
từ album Lovekiller
Phát hànhTháng 10 năm 2009
Thu âm2009
Thể loạiPop
Hãng đĩaUNI
Sáng tácGuy Berryman, Jonny Buckland, Will Champion, Chris Martin
Thứ tự đĩa đơn của Darin
"What If" "Viva la Vida" "You're Out of My Life"

Ca sĩ người Thụy Điển Darin đã thu âm một phiên bản của "Viva la Vida" vào năm 2009 và phát hành nó làm đĩa đơn cho album phòng thu 2010 của anh, Lovekiller. Bài hát đã đạt vị trí quán quân trên Swedish Singles Chart trong 2 tuần.[44]

Năm 2010, ca khúc một lần nữa là đĩa mặt B của "You're Out of My Life". Hai ca khúc này đã đạt vị trí số 3 trên Swedish Singles Chart của Thụy Điển.

Tại Thụy Điển, phiên bản của Coldplay có mặt trên bảng xếp hạng trong 49 tuần từ 15 tháng 5 năm 2009 đến 23 tháng 10 năm 2009, và chỉ đạt được vị trí số 7,.[45]

Các bản hát lại khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhạc số tải về
  1. "Viva la Vida" (Bản mới) – 4:04
CD quảng cáo
  1. "Viva la Vida" (Bản radio) – 3:45
  2. "Viva la Vida" (Bản album) – 4:01
CD chính thức
  1. "Viva la Vida" – 4:02
  2. "Death Will Never Conquer" – 1:17
Phiên bản Bootleg
  1. "Viva la Vida - DMS12 mix" – 7:01

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền vị và kế vị

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm:
"Singin' in the Rain" của Mint Royale
Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart
22 tháng 6 năm 2008 – 29 tháng 6 năm 2008
Kế nhiệm:
"Closer" của Ne-Yo
Tiền nhiệm:
"Lollipop" của Lil WayneStatic Major
Đĩa đơn quán quân U.S. Billboard Hot 100
28 tháng 6 năm 2008
Kế nhiệm:
"I Kissed a Girl" của Katy Perry
Tiền nhiệm
"Let It Die" của Foo Fighters
Đĩa đơn quán quân Modern Rock Tracks
30 tháng 8 năm 2008 – 13 tháng 9 năm 2008
Kế nhiệm
"Believe" của Staind
Tiền nhiệm
"It's Not My Time" của 3 Doors Down
Đĩa đơn quán quân Hot Adult Top 40 Tracks
16 tháng 8 năm 2008 – 23 tháng 8 năm 2008
Kế nhiệm
"I'm Yours" của Jason Mraz
Tiền nhiệm
"The Time of My Life" của David Cook
Đĩa đơn quán quân Hot Adult Contemporary Tracks
7 tháng 2 năm 2009
Kế nhiệm
"I'm Yours" của Jason Mraz
Tiền nhiệm
"I Kissed a Girl" by Katy Perry
Đĩa đơn quán quân Dutch Top 40
4 tháng 10 năm 2008 – 18 tháng 10 năm 208
Kế nhiệm
"Show Me Love 2008" của Robin S.
Tiền nhiệm:
"Töntarna" của Kent
Đĩa đơn quán quân Swedish Singles Chart
(Phiên bản Darin)

30 tháng 10 năm 2009 – 12 tháng 11 năm 2009
Kế nhiệm:
"2000" của Kent

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Rojek, Chris (2011). Pop Music, Pop Culture. Cambridge: Polity Press. tr. 46.
  2. ^ Grein, Paul. “Week Ending Aug. 16, 2009: King Of Country Boots King Of Pop - Chart Watch”. Yahoo! Music. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
  3. ^ “Viva in Spain” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập 10 tháng 4 năm 2014.
  4. ^ “Viva la Vida - Frida Kahlo (1954)”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  5. ^ a b Serpick, Evan (ngày 18 tháng 3 năm 2008). “Rolling Stone Exclusive: Coldplay's New Album Title Revealed”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
  6. ^ “Viva La Vida interview: Full transcript”. Absoluteradio.co.uk. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  7. ^ Viva la Vida or Death and All His Friends. Coldplay. Vương quốc Anh: EMI. 2008.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  8. ^ “Coldplay: Viva La Vida Sheet Music”. sheetmusicdirect.com. © Copyright 2008 Universal Music Publishing MGB Limited.
  9. ^ Young, David (ngày 10 tháng 6 năm 2008). “Viva la Vida Review”. sputnikmusic. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2009.
  10. ^ M., Jon (ngày 20 tháng 6 năm 2008). “CD Spotlight”. Milwaukee Journal Sentinel. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2008.
  11. ^ Kreps, Daniel (ngày 2 tháng 12 năm 2008). “Coldplay, Leona Lewis Top iTunes 2008 Sales Chart”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008.
  12. ^ Willman, Chris (ngày 13 tháng 6 năm 2008). “Viva La Vida - Music Review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  13. ^ Guerra, Joey (ngày 16 tháng 6 năm 2008). “Coldplay channels U2 on new album”. Houston Chronicle. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2008.
  14. ^ Kreps, Daniel (ngày 2 tháng 6 năm 2008). “MTV Movie Awards Reunites Wayne and Garth, Features First TV Performance of New Coldplay Single”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2008.
  15. ^ Lang, Derrick J. (ngày 1 tháng 6 năm 2008). “Over-the-top MTV Movie Awards have smoke, no fire”. Fox News Channel. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2008.
  16. ^ Stolz, Kim (ngày 3 tháng 9 năm 2008). '90210′ Premiere: How Does It Compare To The Old Bev?”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2008.
  17. ^ “A Favorita Soundtrack”. A Favorita International Soundtrack. 2008.
  18. ^ Harris, Chris (ngày 4 tháng 12 năm 2008). “Lil Wayne, Coldplay Lead Grammy Nominations”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2008.
  19. ^ MTV News Staff (ngày 8 tháng 2 năm 2009). “Grammy 2009 Winners List”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2009.
  20. ^ “Nominations for the Ivor Novello Awards”. Theivors.com. ngày 20 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
  21. ^ “The 100 Best Songs of 2008”. Rolling Stone. ngày 25 tháng 12 năm 2008. tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2008.
  22. ^ a b Caulfield, Kieth (ngày 18 tháng 6 năm 2008). “Coldplay Headed To No. 1 On Billboard 200, Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.
  23. ^ a b Cohen, Jonathan (ngày 19 tháng 6 năm 2008). “Digital Sales Drive Coldplay To Top Of Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.
  24. ^ Masterson, James (ngày 22 tháng 6 năm 2008). “Chart Watch - Week Ending ngày 28 tháng 6 năm 2008”. Yahoo! Music. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2008.
  25. ^ “Hot 100 Airplay: Viva la Vida”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.
  26. ^ “Artist Chart History - Coldplay”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2008.
  27. ^ Billboard Chart Beat”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  28. ^ “Gold & Platinum: Search Results”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2010.
  29. ^ Paul Grein (ngày 2 tháng 1 năm 2014). “Can You Believe "Don't Stop Believin'" Loses Spot as Best-Selling Rock Song?”. Chart Watch. Yahoo!.
  30. ^ Sexton, Paul (ngày 23 tháng 6 năm 2008). “Coldplay Dominates U.K. Album, Singles Charts”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2008.
  31. ^ “Viva la Vida - Coldplay Chart History”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
  32. ^ Adams, Guy (ngày 19 tháng 6 năm 2008). “The song they didn't write? Coldplay are accused of plagiarism by American band”. The Independent. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  33. ^ a b c “Coldplay: Viva La Vida' not copied from Brooklyn band. NME. ngày 16 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2008.
  34. ^ a b Martin, Nicole (ngày 20 tháng 6 năm 2008). "Coldplay didn't copy us, says American band". The Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  35. ^ Leonard, Michael (ngày 4 tháng 12 năm 2008). “Joe Satriani sues Coldplay”. MusicRadar. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2009.
  36. ^ Goodman, Dan (ngày 5 tháng 12 năm 2008). “Guitarist accuses Coldplay of plagiarism”. Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2008.
  37. ^ “Joe Satriani”. Coldplay.com. ngày 9 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008.
  38. ^ “Coldplay's Joe Satriani lawsuit dismissed from court”. NME. ngày 15 tháng 9 năm 2009.
  39. ^ Bob, Tourtellotte (ngày 5 tháng 5 năm 2009). “Cat Stevens May Sue Coldplay: 'It Depends On How Well Satriani Does'. Billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2010.
  40. ^ Venable, Malcolm (ngày 18 tháng 5 năm 2009). “Coldplay takes its music into new territory”. The Virginian-Pilot. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2009.
  41. ^ “Yusuf Islam wants to make peace Coldplay”. Oneindia.in. ngày 15 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2009.
  42. ^ “Viva la Vida video 1”. Coldplay.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
  43. ^ "Viva la Vida" trên YouTube. Truy cập 21 tháng 6 năm 2014.
  44. ^ “Darin's Viva la vida on swecharts.com”. Hung Medien. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  45. ^ Coldplay's Viva la vida on swecharts.com Truy cập 14 tháng 11 năm 2009.
  46. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  47. ^ "Austriancharts.at – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40.
  48. ^ "Ultratop.be – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50.
  49. ^ "Ultratop.be – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50.
  50. ^ "Coldplay Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  51. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 44. týden 2008.
  52. ^ "Danishcharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten.
  53. ^ "Musicline.de – Coldplay Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH.
  54. ^ "Coldplay – Chart Search" (bằng tiếng Anh). Billboard European Hot 100 Singles for Coldplay. (cần đăng ký mua)
  55. ^ "Nederlandse Top 40 – Coldplay" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40.
  56. ^ "Dutchcharts.nl – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100.
  57. ^ "Chart Track: Week 25, 2008" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart.
  58. ^ "Norwegiancharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Anh). VG-lista.
  59. ^ "Coldplay Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  60. ^ "Charts.nz – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles.
  61. ^ “Polish Singles Chart”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2010.
  62. ^ "Coldplay: Viva la vida" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  63. ^ "Lescharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Pháp). Les classement single.
  64. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 41. týden 2008.
  65. ^ "Spanishcharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50.
  66. ^ "Swedishcharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100.
  67. ^ "Swisscharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart.
  68. ^ "Australian-charts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles.
  69. ^ "Coldplay Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  70. ^ "Coldplay Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  71. ^ "Coldplay Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  72. ^ "Coldplay Chart History (Alternative Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  73. ^ "Coldplay Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  74. ^ "Italiancharts.com – Coldplay – Viva la vida" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download.
  75. ^ “Canadian Hot 100 Year-End 2008”. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2012.
  76. ^ “:: MTV | Single Jahrescharts 2008 | charts”. Mtv.de. ngày 16 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
  77. ^ “Årslista Singlar – År 2008” (bằng tiếng Thụy Điển). Swedish Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.
  78. ^ “Official Singles Chart 2008” (PDF). Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  79. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2009”. ARIA. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
  80. ^ “Canadian Hot 100 Year-End 2009”. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2012.
  81. ^ “Spanish Promusicae Year end 2009” (PDF). Promusicae. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.[liên kết hỏng]
  82. ^ “2009 Year End Swiss Singles Chart”. Swiss Music Charts. 2009. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2010.
  83. ^ “Charts Plus Year end 2009” (PDF). Charts Plus. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.
  84. ^ “Year End Charts – Year-end songs – The Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
  85. ^ “Pop Rock” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Record Report. ngày 16 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  86. ^ “The Billboard Hot 100 Singles & Tracks – Decade Year End Charts”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
  87. ^ “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. ngày 26 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2010.
  88. ^ “Ultratop Belgian Charts”. ultratop.be. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2012.
  89. ^ “Certificados” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Brasileira de Produtores de Discos. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2010.
  90. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  91. ^ “Gold-/Platin-Datenbank ('Viva la Vida')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
  92. ^ “Gold and Platinum – Search results”. RIAA. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2014.
  93. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  94. ^ “Kulta- ja platinalevyt” (bằng tiếng Phần Lan). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2010.
  95. ^ “TOP 50 CANCIONES ANUAL 2009” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). PROMUSICAE. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2010.
  96. ^ “Awards 2009”. Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2009.
  97. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2008 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  98. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
7 kẻ không thể không build trong Honkai: Star Rail
7 kẻ không thể không build trong Honkai: Star Rail
Chúng ta biết đến cơ chế chính trong combat của HSR là [Phá Khiên]... Và cơ chế này thì vận hành theo nguyên tắc
Tổng hợp các loại Kagune trong Tokyo Ghoul
Tổng hợp các loại Kagune trong Tokyo Ghoul
Một trong những điều mà chúng ta không thể nhắc đến khi nói về Tokyo Ghoul, đó chính là Kagune
Cẩm nang để một mình - đừng cố để có một người bạn
Cẩm nang để một mình - đừng cố để có một người bạn
Tôi đã từng là một người cực kì hướng ngoại. Đối với thế giới xung quanh, tôi cảm thấy đơn độc đến vô vàn
Marley and Me - Life and love with the world's worst dog
Marley and Me - Life and love with the world's worst dog
Một cuốn sách rất đáng đọc, chỉ xoay quanh những câu chuyện đời thường nhưng vô cùng giản dị. Chú chó lớn lên cùng với sự trưởng thành của cặp vợ chồng, của gia đình nhỏ đấy