Dữ liệu lâm sàng | |
---|---|
Phát âm | /traɪˈmɛθəprɪm/ |
Tên thương mại | Proloprim, Monotrim, Triprim, others |
AHFS/Drugs.com | Chuyên khảo |
MedlinePlus | a684025 |
Giấy phép |
|
Danh mục cho thai kỳ | |
Dược đồ sử dụng | Oral |
Mã ATC | |
Tình trạng pháp lý | |
Tình trạng pháp lý | |
Dữ liệu dược động học | |
Sinh khả dụng | 90–100% |
Liên kết protein huyết tương | 44% |
Chuyển hóa dược phẩm | hepatic |
Chu kỳ bán rã sinh học | 8-12 hours |
Bài tiết | Urine (50–60%), faeces (4%) |
Các định danh | |
Tên IUPAC
| |
Số đăng ký CAS | |
PubChem CID | |
DrugBank | |
ChemSpider | |
Định danh thành phần duy nhất | |
KEGG | |
ChEBI | |
ChEMBL | |
Phối tử ngân hàng dữ liệu protein | |
ECHA InfoCard | 100.010.915 |
Dữ liệu hóa lý | |
Công thức hóa học | C14H18N4O3 |
Khối lượng phân tử | 290.32 g/mol |
Mẫu 3D (Jmol) | |
SMILES
| |
Định danh hóa học quốc tế
| |
(kiểm chứng) |
Trimethoprim (TMP) là một kháng sinh được sử dụng chủ yếu trong điều trị nhiễm trùng bàng quang.[1] Một số bệnh khác mà thuốc được sử dụng có thể kể đến như nhiễm trùng tai giữa và bệnh tiêu chảy của du khách.[1] Khi kết hợp với sulfamethoxazol hoặc dapsone, kháng sinh này cũng có thể sử dụng để chữa bệnh viêm phổi do Pneumocystis ở những người nhiễm HIV/AIDS.[1][2] Chúng được đưa vào cơ thể qua đường miệng.[1]
Các tác dụng phụ thường gặp là buồn nôn, thay đổi vị giác và phát ban.[1] Chúng có thể dẫn đến các vấn đề về máu như không đủ tiểu cầu hoặc bạch cầu nhưng rất hiếm.[1] Trimethoprim cũng có thể làm cho da nhạy cảm với ánh sáng mặt trời.[1] Người ta có ghi nhận về khả năng gây hại của thuốc trong thai kỳ ở một số động vật nhưng không phải ở người.[3] Khánh sinh này có tác động bằng cách ngăn chặn trao đổi chất folate thông qua enzyme dihydrofolate reductase ở một số vi khuẩn và do đó, những vi khuẩn này sẽ chết.[1]
Trimethoprim được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1962.[4] Nó nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế.[5] Chúng có sẵn dưới dạng thuốc gốc và không tốn kém lắm về mặt kinh tế.[6] Tại Hoa Kỳ, một đợt điều trị mười ngày có giá khoảng 21 đô la.[1]