Victoria Abril

Victoria Abril
Tên khai sinhVictoria Mérida Rojas
Sinh4 tháng 7, 1959 (65 tuổi)
Madrid, Tây Ban Nha
Nghề nghiệpDiễn viên, ca sĩ
Năm hoạt động1974 tới nay
Hôn nhânPierre Edelman
Gustavo Laube
Bạn đờiGérard de Battista

Victoria Abril tên khai sinh là Victoria Merida Rojas, sinh ngày 4.7.1959 tại Madrid, là một nữ ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Tây Ban Nha. Chị nổi tiếng quốc tế về vai diễn trong phim ¡Átame! (Tie Me Up! Tie Me Down!) của đạo diễn Pedro Almodóvar.

Ngoài các phim của Tây Ban Nha, chị cũng tham gia đóng phim ở Pháp, ÝIceland. Chị đã được đề cử 8 lần cho giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và đoạt giải một lần.

Ngoài việc diễn xuất, chị cũng làm ca sĩ; năm 2005 chị đã phát hành album nhạc bossanova-jazz đầu tiên là PutchEros do Brasil. Chị cũng đã đại diện cho Tây Ban Nha trong cuộc thi Eurovision Song Contest năm 1979 với bài "Bang-Bang-Bang" nhưng chỉ đoạt hạng tam, thua Betty Missiego.

Tiểu sử & Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Được người mẹ làm y tá nuôi dưỡng, Victoria sống ở Malaga, rồi Madrid. Thiên hướng ban đầu của chị là môn vũ cổ điển mà chi tập từ thời niên thiếu.

Chị bước vào điện ảnh năm 1975 trong phim Obsession của đạo diễn Francisco Lara Polop. Năm 16 tuổi, chị đã đóng phim bên cạnh Audrey HepburnSean Connery trong phim La Rose et la Flèche. Trong thời gian này, chị đã đổi tên thành Abril. Chị đã tiến một bước quan trọng trong diễn xuất khi làm việc với đạo diễn Vicente Aranda. Ông ta đã cho chị đóng vai chính trong phim Cambio de sexo năm 1977 và chị được coi là một trong các nữ diễn viên triển vọng nhất của Tây Ban Nha. Sau đó chị còn xuất hiện trong nhiều phim của đạo diễn này.

Năm 1976, chị làm người giới thiệu và hoạt náo viên cho chương trình truyền hình Tây Ban Nha trong các trò chơi Uno, dos, tres, Responda otra vez625 lineas. Sau đó, chị cộng tác với nhiều đạo diễn Tây Ban Nha khác, trong đó có Francisco Lara Polop, Carlos Saura và nhất là Pedro Almodóvar.

Năm 1982, chị chuyển sang cư ngụ ở Paris với người tình Gérard de Battista. Họ có hai con trai Martín và Félix.

Năm 1990, chị nổi tiếng trong phim ¡Átame! (Tie Me Up! Tie Me Down!) của Pedro Almodóvar. Năm 1991, Victoria Abril đoạt giải Gấu bạc cho nữ diễn viên xuất sắc nhất của Liên hoan phim Berlin cho vai diễn trong phim Amantes của đạo diễn Vicente Aranda.

Năm 1993, chị sang Hollywood đóng phim Jimmy Hollywood do Barry Levinson đạo diễn. Năm 1996, chị đoạt Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim Nadie hablará de nosotras cuando hayamos muerto của đạo diễn Agustin Diaz Yanes.

Tại Pháp, chị được khán giả biết đế nhiều nhờ các vai diễn trong các phim La Lune dans le caniveau (1983), Talons aiguilles (1991), Kika (1993) và nhất là phim hài Gazon maudit (1995) trong vai vợ của diễn viên Alain Chabat.

Ở Tây Ban Nha, chị cũng diễn xuất trên sân khấu. Ngoài ra chị còn là một nữ ca sĩ, đã xuất bản 5 đĩa ở Tây Ban Nha.

Danh mục phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Olala! (2007)
  • Putcheros do Brasil (2005)

Các giải thưởng & đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên hoan phim quốc tế Berlin

Năm Loại giải Phim Kết quả
1991 Giải Gấu bạc cho nữ diễn viên xuất sắc nhất Amantes Đoạt giải

Liên hoan phim quốc tế San Sebastián

Năm Loại giải Phim Kết quả
1995 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Nadie hablará de nosotras cuando hayamos muerto Đoạt giải
1987 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất El Lute: camina o revienta Đoạt giải

Giải César

Năm Loại giải Phim Kết quả
1984 Giải César cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất L'addition Đề cử
1983 Giải César cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất La lune dans le caniveau Đề cử

Giải Goya

Năm Loại giải Phim Kết quả
2004 Giải Goya cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất El séptimo día Đề cử
2001 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Sin noticias de Dios Đề cử
1995 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Nadie hablará de nosotras cuando hayamos muerto Đoạt giải
1991 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Amantes Đề cử
1990 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất ¡Átame! Đề cử
1989 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Si te dicen que caí Đề cử
1988 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Bâton Rouge Đề cử
1987 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất El Lute: camina o revienta Đề cử
1986 Giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Tiempo de silencio Đề cử

Giải Fotogramas de Plata

Năm Loại giải Phim/TV Serie Kết quả
2001 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Sin noticias de Dios Đề cử
1995 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Nadie hablará de nosotras cuando hayamos muerto Đề cử
1993 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Intruso Đề cử
1991 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Amantes
Sandino
Tacones lejanos
Đề cử
1990 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất A solas contigo
¡Átame!
Đề cử
1989 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Si te dicen que caí Đoạt giải
1988 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Bâton Rouge
El juego más divertido
El placer de matar
Đề cử
1987 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất Barrios altos
El Lute: camina o revienta
Đoạt giải
1986 Mejor actriz de cine Tiempo de silencio Đề cửa
1985 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất
Nữ diễn viên truyền hình xuất sắc nhất
L'addition
La hora bruja
Padre nuestro

La huella del crimen 1: El crimen del Capitán Sánchez
Los pazos de Ulloa
Đoạt giải
Đề cử
1984 Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất La noche más hermosa
Las bicicletas son para el verano
Đề cử

Unión de Actores (Liên đoàn diễn viên)

Năm Loại giải Phim Kết quả
2004 Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất El séptimo día Đoạt giải
2001 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Sin noticias de Dios Đề cử
1995 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Nadie hablará de nosotras cuando hayamos muerto Đoạt giải
  • Trước kia có một ban nhạc rock Argentina tên là Victoria Abril (theo tên của nữ diễn viên này), nhưng nay đã đổi thành ban nhạc Victoria Mil.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Clorinde – Lối chơi, hướng build và đội hình
Clorinde – Lối chơi, hướng build và đội hình
Clorinde có bộ chỉ số khá tương đồng với Raiden, với cùng chỉ số att và def cơ bản, và base HP chỉ nhỉnh hơn Raiden một chút.
Chờ ngày lời hứa nở hoa (Zhongli x Guizhong / Guili)
Chờ ngày lời hứa nở hoa (Zhongli x Guizhong / Guili)
Nàng có nhớ không, nhữnglời ta đã nói với nàng vào thời khắc biệt ly? Ta là thần của khế ước. Nhưng đây không phải một khế ước giữa ta và nàng, mà là một lời hứa
[Chap 5] Cậu của ngày hôm nay cũng là tất cả đáng yêu
[Chap 5] Cậu của ngày hôm nay cũng là tất cả đáng yêu
Truyện ngắn “Cậu của ngày hôm nay cũng là tất cả đáng yêu” (Phần 5)
Lịch sử World Item & câu chuyện xoay quanh nó
Lịch sử World Item & câu chuyện xoay quanh nó
Trong truyền thuyết trò chơi YGGDRASIL, Cây Thế giới từng được bao phủ bởi vô số chiếc lá, nhưng một ngày nọ, một con quái vật khổng lồ xuất hiện và ăn tươi nuốt sống những chiếc lá này