Mirage 2000 | |
---|---|
Một chiếc Mirage 2000C thuộc Không quân Pháp | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích đa năng |
Quốc gia chế tạo | Pháp |
Hãng sản xuất | Dassault Aviation |
Chuyến bay đầu tiên | 10 tháng 3 năm 1978[1] |
Bắt đầu được trang bị vào lúc |
tháng 7 năm 1984 |
Tình trạng | Đang phục vụ |
Trang bị cho | Không quân Pháp Không quân Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Không quân Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) Không quân Ấn Độ |
Được chế tạo | 1978–2007 |
Số lượng sản xuất | 601[2] |
Biến thể | Dassault Mirage 2000N/2000D |
Phát triển thành | Dassault Mirage 4000 |
Mirage 2000 là một loại máy bay tiêm kích đa nhiệm do hãng Dassault Aviation của Pháp thiết kế và chế tạo. Nó được thiết kế vào cuối những năm của thập niên 1970 như một máy bay chiến đấu hạng nhẹ cho Không quân Pháp, nó được đánh giá là một trong những máy bay đa nhiệm thành công của Pháp, hiện nay nó đang phục vụ tại 9 quốc gia với hơn 600 chiếc Mirage được chế tạo.
Chương trình Avion de Combat Futur (ACF - Máy bay chiến đấu tương lai) được phát triển cho Không quân Pháp (Armée de l'Air - AdA) vào đầu thập niên 1970. Sau khi ACF hủy bỏ vào 18 tháng 12-1975 vì chi phí tăng cao và gặp nhiều rắc rối, Dassault đã giới thiệu Mirage 2000 như một lựa chọn khác. Đây là sự trở lại với những Mirage thế hệ thứ nhất, nhưng với vài cải tiến quan trọng được thử nghiệm để giải quyết những khuyết điểm của thế hệ thứ nhất. Đứng đầu dự án là B.C. Valliéres, J.Cabrière, J.C. Veber và B.Revellin-Falcoz[3].
Việc phát triển của máy bay cỡ nhỏ này đã giúp hãng Dassault có được một mẫu máy bay cạnh tranh với loại General Dynamics F-16 Fighting Falcon, F-16 đã đánh bại Dassault Mirage F1 trong một cuộc canh tranh cho vị trí máy bay tiêm kích mới trong không quân Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan và Na Uy. Những máy bay tiêm kích một động cơ cỡ nhỏ rõ ràng được đánh giá cao hơn bởi những khách hàng nước ngoài, như kinh nghiệm đã chỉ ra đối với loại Mirage 4000 hai động cơ cỡ lớn.
Nguyên mẫu thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 10 tháng 3-1978 do phi công thử nghiệm Jean Coreau điều khiển. Dù những công nghệ mới đã được áp dụng, máy bay mới dựa trên Mirage III cho phép việc phát triển một nguyên mẫu có thể bay được chỉ mất 27 tháng từ khi chương trình bắt đầu đến khi thực hiện chuyến bay đầu tiên, dù để máy bay bắt đầu hoạt động chính thức thì phải mất đến 6 năm nữa.
Vào mùa hè năm 1978, tại triển lãm hàng không Farnbourgh, loại máy bay mới này đã trình diễn không chỉ khả năng điều khiển bằng tay hoàn hảo, mà còn có thể điều khiển hoàn toàn máy bay ở vận tốc 204 km/h và góc tấn là 26°. Điều này hoàn toàn gây bất ngờ đối với những người chứng kiến, nhất là lại do một máy bay tiêm kích cánh tam giác thực hiện, và đã chứng minh cách điều khiển CCD có khả năng khắc phục những thiếu sót của cánh tam giác liên quan đến việc khó điều khiển máy bay ở tốc độ thấp, trong khi giữ lại những lợi thế, như lực kéo thấp, RSC thấp, hình dáng khí động học ở tốc độ cao lý tưởng và đơn giản, do không có những đuôi nằm ngang. Mirage 2000 là một trong những ngôi sao của triển lãm hàng không đó và trở thành đối thủ trực tiếp của F-16, F-16 cũng có điều khiển CCD và sự ổn định tốt[4]. Nguyên mẫu số 2 đã thực hiện bay vào ngày 18 tháng 9-1978 và nguyên mẫu số 3 bay vào ngày 26 tháng 9-1979. Sau 400 giờ bay, chúng được gửi tới CEV (Centre Experimental du Vol). Nguyên mẫu số 4 là một mẫu thao diễn do Dassault chế tạo cho mục đích riêng của hãng, và cuối cùng là M.2000B hai chỗ bay vào 11 tháng 10-1980.
Mẫu sản xuất đầu tiên bay vào ngày 20 tháng 11-1982, và máy bay đi vào hoạt động chính thức vào năm 1984. Thực tế đây là những máy bay tiền sản xuất, vì chúng không có tên lửa SARH (radar RDM-1) và mẫu đầu của SNECMA 'Super Atar' M-53-2. Chiếc Mirage 200 cuối cùng được giao vào 23 tháng 11-2007.[5]
Mirage 2000 theo kế hoạch bị thay thế bởi Dassault Rafale trong Không quân Pháp, bắt đầu từ 27 tháng 6-2006. Dây chuyền sản xuất Mirage 2000 đã đóng cửa vào tháng 11-2007 sau khi chiếc máy bay cuối cùng được giao cho Không quân Hy Lạp.
Sử dụng khái niệm máy bay đánh chặn cánh tam giác từ chiếc Dassault Mirage III, Dassault đã đưa ra một thiết kế mới vẫn sử dụng kiểu cánh này. Kiểu cánh tam giác không phải lý tưởng về độ cơ động, bay cao độ thấp và chiều dài đường băng cần thiết cho việc cất hạ cánh; nhưng có ưu điểm về các đặc tính bay ở bay tốc độ cao, đơn giản trong chế tạo, diện tích phản hồi radar thấp và không gian trong.
Cánh kim loại nhiều trụ; các bộ phận di động được bọc sợi carbon với lõi hợp kim nhẹ AG5 rỗ tổ ong; các thanh xà hợp kim rỗ tổ ong sợi carbon/nhẹ bao phủ khoang đặt hệ thống điện tử; đa phần cánh dọc đuôi và tất cả các đuôi lái đều được phủ boron/epoxy/carbon; đuôi lái có lõi hợp kim rỗ tổ ong nhẹ.
Máy bay có một hệ thống kiểm soát bay fly-by-wire tự động, mang lại tính cơ động cao và dễ dàng điều khiển, cùng với độ ổn định và điều khiển chính xác trong mọi hoàn cảnh. Khung máy bay tiêm kích vốn không bền, và vì nó được kết hợp với FBW để có được độ linh hoạt tốt nhất; tuy nhiên, quan trọng hơn là cách này giúp máy bay có thể vượt tốc độ lộn vòng 270 độ/giây và cho phép máy bay đạt đến gia tốc trọng trường 11 g (giới hạn cấu trúc là 12 g), thay vì 9 như đã dự kiến. Hệ thống trên máy bay đáng tin cậy.
Chiếc máy bay này sử dụng kiểu bánh đáp ba bánh thu vào được do Messier-Bugatti sản xuất, bánh đúp phía trước bánh đơn phía sau. Hệ thống thu càng thủy lực, bánh trước thu về phía sau, bánh sau vào phía trong. Giảm chấn Oleo-pneumatic. Bánh trước điều khiển điện thủy lực trong khoảng (+/-45 độ). Khi ngắt điều khiển điện để điều khiển bằng tay, bánh trước có thể quay 360 độ cho việc dắt lai dưới mặt đất.
Có cả phiên bản chiến đấu đa nhiệm một chỗ ngồi và hai chỗ ngồi. Phi công điều khiển máy bay bằng một cần điều khiển ở giữa và tay ga ở bên trái, kết hợp cả hai thành thanh điều khiển (hands-on-throttle-and-stick) (HOTAS). Phi công ngồi trên một ghế phóng SEMB Mark 10 zero-zero, phiên bản chế tạo theo giấy phép của Martin-Baker Mark 10 Anh Quốc. Không giống như F-16, phi công ngồi trong một vị trí truyền thống, không có độ dốc ngược ra sau như ghế của F-16. Buồng lái khá nhỏ, và không có vòm bọt. Dù vậy, tầm nhìn từ buồng lái vẫn khá tốt, nhưng kém hơn so với F-16, đặc biệt tại vị trí '6 giờ' (nhìn về phía sau).
Bảng điều khiển (trên Mirage 2000 C) chủ yếu gồm một hệ thống hiển thị trước mặt (HUD) với màn hình radar VMC 180 nằm ở trung tâm bên dưới nó. Phía dưới bên trái là bảng kiểm soát dự trữ, và trên nó là các thiết bị hoa tiêu và thiết bị đo độ cao. Nửa phía phải bảng thiết bị có màn hình hiển thị cho động cơ và các hệ thống. Phía bên trái buồng lái, ngay phía trước thanh điều khiển ga, là các nút kiểm soát thiết bị liên lạc, gồm cả radio mã hóa Have Quick.
Các hệ thống điện tử tiêu chuẩn cho Mirage-2000B/C gồm:
Mirage 2000 được trang bị một động cơ phản lực cánh quạt đẩy SNECMA M53-5 hay SNECMA M53-P2 tỷ lệ đường vòng thấp theo các phiên bản Mirage 2000 khác nhau, cung cấp 64 kN lực đẩy khô và 98 kN khi sử dụng buồng đốt lần hai. Các cửa hút khí được trang bị một lõi hình bán trụ nón điều chỉnh được, cung cấp một chấn xung áp lực không khí tăng hiệu năng hút khí. Tổng lượng nhiên liệu chứa trong là 3.978 L với Mirage 2000C và E, và 3.904 L với Mirage 2000B, N, D và S. Có thể lắp thêm 1 thùng nhiên liệu phụ vứt được 1300 L lắp ở giữa thân và 2 thùng 1700 L dưới cánh.
Mirage 2000 có thể mang tới 6.3 tấn (13.900 lb) (hoặc 7 tấn đối với phiên bản -9) vũ khí trên chín giá treo, với hai mấu trên mỗi cánh và năm dưới thân. Một thiết bị nạp dầu trên không tháo bỏ được được lắp phía trước buồng lái, hơi xiên theo phía phải.
Trang bị vũ khí chủ yếu của Mirage 2000 gồm:
Những chiếc Mirage 2000 của Pháp đã được sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh dù ít thấy trong hoạt động chiến đấu. Những chiếc Mirage của Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất cũng có mặt trong cuộc chiến tranh này nhưng ít hay không hề tham chiến.
Những chiếc Mirage 2000 của Pháp tham gia với vai trò nổi bật trong những chiến dịch không kích của Liên hiệp quốc và NATO tại Nam Tư cũ, chỉ một chiếc bị bắn hạ trên bầu trời Bosnia bởi một quả tên lửa đất đối không tầm nhiệt của Quân đội Republika Srpska năm 1995, dẫn tới những nỗ lực cải tiến hơn nữa các hệ thống phòng vệ.
Vào 10 tháng 10-1996, một chiếc Mirage 2000 của Hy Lạp đã bắn một quả tên lửa R550 Magic 2 và bắn hạ một chiếc F-16D (số 91-0023) của Thổ Nhĩ Kỳ phía trên biển Aegea, phi công chính bị thiệt mạng, phi công phụ nhảy dù và bị các lực lượng của Hy Lạp bắt làm tù binh.
Những chiếc Mirage 2000D của đã tham gia vào cuộc can thiệp tại Afghanistan năm 2001-2002, hoạt động kết hợp với các lực lượng quốc tế và thực hiện những phi vụ ném bom với loại bom dẫn đường LGB.
Vào mùa hè năm 2007, sau khi những máy bay tiêm kích Rafale đã ngừng hoạt động trên chiến trường Afghanistan, Pháp đã huy động 2 chiếc Mirage 2000 khác đến để thay thế trong vai trò hỗ trợ các đơn vị của NATO.
Chiến tranh Kargil, 1999: Ấn Độ đã trao nhiệm vụ tấn công hạt nhân cho những chiếc Mirage 2000 của họ. Năm 1999 khi cuộc xung đột Kargil bùng phát, bởi tất cả những chiếc máy bay Nga trong không quân Ấn Độ (MiG-21, MiG-23, MiG-27) đều gặp vấn đề khi hoạt động ở độ cao lớn hay tỏ ra kém cỏi trước MANPAD của đối phương, Mirage 2000 đã chứng tỏ khả năng lý tưởng khi thực hiện nhiệm vụ ném bom ở độ cao lớn. Mirage 2000 cũng cho thấy khả năng tốt trong toàn bộ cuộc xung đột, dù những chiếc Mirage được cung cấp cho Ấn Độ đều có khả năng ngăn chặn trên không hạn chế và phải được chuyển đổi nhiều để có thể ném bom câm và bom dẫn đường laser. Hai phi đội Mirage đã thực hiện tổng cộng 515 lần xuất kích, và trong 240 phi vụ tấn công ném 55.000 kg vũ khí. Bảo dưỡng đơn giản và có tỷ lệ xuất kích rất cao (so với các máy bay chiến đấu Nga trong Không quân Ấn Độ) khiến Mirage 2000 trở thành loại máy bay chiến đấu hiệu quả nhất của Không quân Ấn Độ trong cuộc xung đột này.
Chiếc Mirage 2000 đầu tiên đi vào hoạt động là một chiếc tiêm kích đánh chặn một chỗ ngồi Mirage 2000C. Có bốn nguyên mẫu một chỗ ngồi, gồm cả nguyên mẫu Mirage 2000 đầu tiên. Chiếc Mirage 2000C sản xuất đầu tiên cất cánh năm 1982. Công việc giao hàng bắt đầu năm 1983. Phi đội hoạt động đầu tiên được thành lập năm 1984, kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Không quân Pháp. Tổng cộng 124 Mirage-2000C đã được chuyển giao cho Không quân Pháp.
37 chiếc Mirage 2000C được chuyển giao đầu tiên được trang bị radar Thomson-CSF RDM (Radar Doppler đa chức năng) và sử dụng động cơ phản lực cánh quạt đẩy SNECMA M53-5. Chiếc Mirage 2000C thứ 38 sử dụng động cơ phản lực cánh quạt đẩy SNECMA M53-5 P2 cải tiến. Radar Xung Doppler (RDI) do Thales sản xuất không được sử dụng tới tận năm 1987.
Những cải tiến mới nhất gồm:
Mirage 2000B là một phiên bản huấn luyện 2 chỗ ngồi chuyển đổi hoạt động, bay lần đầu vào ngày 11-10-1980. Không quân Pháp đã đặt 30 chiếc Mirage 2000B.
Mirage 2000N là một phiên bản tấn công hạt nhân được chế tạo để mang tên lửa hạt nhân Aerospatiale Air-Sol Moyenne Portee (ASMP). Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của 2 nguyên mẫu bắt đầu vào 3 tháng 2-1983, và Mirage 2000N bắt đầu hoạt động chính thức vào năm 1988. Tổng cộng có 75 chiếc được chế tạo.
Mirage 2000D một phiên bản tấn công thông thường được phát triển từ Mirage 2000N. Chuyến bay đầu tiên của nguyên mẫu Mirage 2000D, đây là nguyên mẫu Mirage 2000N sửa đổi, diễn ra vào 19 tháng 2-1991. Chuyến bay đầu tiên của sản phẩm chính thức được thực hiện ngày 31 tháng 3-1993, và bắt đầu hoạt động chính thức năm 1995. Tổng cộng có 86 chiếc được chế tạo.
Vào cuối thập niên 1980, Mirage 2000 bắt đầu xuống cấp giống như những kiểu đời đầu của F-16, do đó Thomson-CSF bắt đầu thực hiện các nâng cấp lấy kinh phí từ nguồn quỹ riêng của hãng trên phiên bản Mirage 2000C và sau đó đổi tên thành Mirage 2000-5. Một nguyên mẫu Mirage 2000B hai chỗ cũng được sửa đổi phần lớn như nguyên mẫu đầu Mirage 2000-5, và nó bay lần đầu vào 24 tháng 10-1990. Một nguyên mẫu Mirage 2000C sau đó cũng được sửa đổi lại để trở thành tiêu chuẩn tương tự, nó bay lần đầu vào 27 tháng 4-1991.
Đặc điểm:
Năm 1993, AdA quyết định nâng cấp 37 chiếc Mirage 2000 hiện đang có của mình thành tiêu chuẩn 2000-5 như một thay thế tạm thời trước khi Rafale bắt đầu hoạt động trong AdA. Máy bay nâng cấp có tên gọi là Mirage 2000-5F, và trở lại hoạt động năm 2000. Chúng giữ lại hệ thống đối phó điện tử cũ với các bộ phận Serval/Sabre/Spirale và không sử dụng hệ thống ICMS 2.
AdA hiện nay đang xem xét những nâng cấp cho kiểu này, bao gồm hệ thống liên kết dữ liệu MIDS, tên lửa MICA hồng ngoại và hệ thống ngắm bắn / hiển thị trên mũ Thales Topsight.
Dassault mở rộng các cải tiến của Mirage 2000-5 với một phiên bản cải tiến xa hơn là Mirage 2000-5 Mark 2, đây là một phiên bản nâng cao, đa nhiệm hoàn toàn của Mirage 2000-5. Đây là phiên bản tiên tiên nhất hiện nay của Mirage 2000.
Đặc điểm:
"Mirage 2000E" là tên gọi chung cho seri phiên bản xuất khẩu của Mirage 2000. Máy bay có động cơ M53-P2 và radar tăng cường "RDM+", và đều có thể mang thiết bị ngắm mục tiêu laser ban ngày ATLIS II.
Ai Cập là khách hàng nước ngoài đầu tiên, đã đặt mua 16 chiếc Mirage 2000M một chỗ và 4 chiếc Mirage 2000BM huấn luyện vào cuối năm 1981, việc chuyển giao bắt đầu vào năm 1986. Ai Cấp cũng mua thiết bị ATLIS II và rất nhiều loại đạn dược, bao gồm tên lửa không đối không Magic và Super 530, tên lửa không đối đất dẫn đường bằng laser AS-30L, và tên lửa chống bức xạ Armat.
Ấn Độ đã mua tổng cộng 49 chiếc, bao gồm 42 chiếc một chỗ và 7 chiếc hai chỗ. Không quân Ấn Độ đặt tên cho nó là Mirage Vajra (Thunderbolt - Tia sét).
Các đơn đặt hàng gần đây:
Peru đã đặt mua 10 chiếc Mirage 2000P một chỗ và 2 chiếc Mirage 2000DP huấn luyện hai chỗ. Peru cũng đặt mua các vũ khí tương tự như Ai Cập, cùng với thiết bị ngắm mục tiêu ATLIS II.
Năm 1992, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), đã đặt mua 48 chiếc tiêm kích đánh chặn Mirage 2000-5EI một chỗ và 12 chiếc huấn luyện Mirage 2000-5DI, với chiếc đầu tiên hoạt động vào năm 1997 và chiếc cuối cùng được giao vào năm 1998. Đài Loan đã ký một hợp đồng mua thiết bị tình báo điện tử ASTAC cho những chiếc Mirage của mình.
Mọi chiếc Mirage 2000-5 đang hoạt động trong đơn vị không quân chiến thuật số 499 tại Tân Trúc. Đơn vị đầu tiên được chuyển đổi sang bay Mirage là phi đội tiêm kích chiến thuật số 41 vào ngày 1 tháng 12-1997. Tiếp theo là phi đội số 42 vào ngày 26 tháng 11-1998. Không đoàn số 499 đạt được IOC (Khả năng hoạt động ban đầu) vào ngày 10 tháng 5-2001, và phi đội chiến thuật số 48 cũng được ủy nhiệm bay Mirage cùng ngày.
Vào ngày 1 tháng 11-2004, phi đội tiêm kích chiến thuật số 41 và 42 được nâng cấp thành liên đoàn tiêm kích chiến thuật (TFG), trong khi phi đội tiêm kích chiến thuật số 48 trở thành liên đoàn huấn luyện số 48 (TG), đây là những thay đổi trong một đợt tái cơ cấu lực lượng lớn của ROCAF từ năm 1999. Cùng lúc, liên đoàn tiêm kích chiến thuật số 11 ban đầu đã giải thể. Mỗi một TFG/TG mới được chỉ huy bởi một đại tá, nhưng số lượng máy bay được cấp không khác nhiều so với một phi đội. Dù tên chính thức tiếng Anh của các đơn vị là Liên đoàn tiêm kích chiến thuật, nhưng tên chữ Hán theo nghĩa đen là Liên đoàn chiến dịch.
Năm 1994, Qatar đã đặt mua 9 chiếc Mirage 2000-5EDA một chỗ và 3 chiếc Mirage 2000-5DDA huấn luyện, việc chuyển giao bắt đầu vào năm 1997.
Năm 1983, UAE (Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) đặt mua 22 chiếc Mirage 2000EAD một chỗ, 8 chiếc trinh sát một chỗ Mirage 2000RAD, và 6 chiếc Mirage 2000DAD huấn luyện, tổng cộng là 36 chiếc. UAE đã đặt các bộ phận điện tử phòng thủ được chế tạo từ Ý, chúng bị chuyển giao chậm trễ cho đến tận năm 1989.
Mirage 2000-9 là phiên bản xuất khẩu của Mirage 2000-5 Mk.2.
Bắt đầu vào tháng 3-1985, Hy Lạp đã đặt mua 36 chiếc Mirage 2000EG một chỗ và 4 chiếc Mirage 2000BG huấn luyện hai chỗ, đây là một phần trong dự án hiện đại hóa "Talos".
Dassault đã tham gia một cuộc cạnh cung cấp máy bay chiến đấu cho Brasil với Mirage 2000BR, phiên bản khác của Mirage 2000-9. Do vấn đề ngân sách của Brazil, cuộc cạnh tranh đã lùi lại vài năm cho đến khi bị hoãn lại tháng 2 năm 2005.
Pháp | ||
---|---|---|
Biến thể | Vai trò | Số lượng |
2000C | Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi | 124 |
Đã được nâng cấp theo tiêu chuẩn 2000-5F | 37 | |
2000D | Tấn công quy ước hai chỗ ngồi | 86 |
2000N | Tấn công hạt nhân hai chỗ ngồi | 75 |
2000B | Hai chỗ ngồi với bộ 2000C | 30 |
Tổng | 315 | |
Ấn Độ | ||
2000H | So sánh được với 2000C | 52 |
2000D | 10 | |
2000TH | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 7 |
Tổng | 69 | |
UAE | ||
2000EAD | Đa nhiệm vụ một chỗ ngồi | 22 |
2000-9 | Một chỗ ngồi | 20 |
2000-9D | Huấn luyện haii chỗ ngồi | 12 |
2000RAD | Biến thể trinh sát | 8 |
2000DAD | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 6 |
Tổng | 68 | |
Trung Hoa Dân Quốc | ||
2000-5EI | Tương tự 2000-5 | 48 |
2000-5DI | Tương tự 2000-5D | 12 |
Tổng | 60 | |
Hy Lạp | ||
2000EG | Tương tự 2000C | 11 |
2000-5 Mk 2 | Máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ | 25 |
2000DG | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 8 |
Tổng | 44 | |
Ai Cập | ||
2000EM | Tương tự 2000C | 16 |
2000BM | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 4 |
Tổng | 20 | |
Qatar | ||
2000-5EDA | Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi | 9 |
2000-5DDA | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 3 |
Tổng | 12 | |
Perú | ||
2000P | Máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ một chỗ ngồi | 10 |
2000DP | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 2 |
Tổng | 12 | |
Brasil | ||
2000C | Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi | 10 |
2000B | Huấn luyện hai chỗ ngồi | 2 |
Tổng | 12 |
Mirage 2000 được dự định thay thế tại Pháp bởi Dassault Rafale, loại máy bay bắt đầu hoạt động trong Không quân Pháp ngày 27 tháng 6 năm 2006.
2.200 km/h
Phiên bản Mirage 2000C đã xuất hiện trong một bộ phim của Pháp năm 2005 có tên là Les Chevaliers du Ciel (Lit.The Knights of Sky, tiêu đề tiếng Anh Sky Fighters, imdb), diễn viên Benoît Magimel vai đại úy Antoine "Walk'n" Marchelli và Clovis Cornillac vai đại úy Sébastien "Fahrenheit" Vallois. Không một hiệu ứng hình ảnh tiền sản xuất nào được sử dụng để thay thế máy bay, và các chuyến bay được quay phim bằng một chiếc camera đặt trong một thùng nhiên liệu sửa đổi mang trên một chiếc Mirage khác hoặc một chiếc Alphajets.
50 - F1 - G - 2000/2000N/D - 4000