Ninh Bình là một vùng đất cổ nằm ở vị trí cửa ngõ cực nam của tam giác châu thổ sông Hồng và miền Bắc. Vùng đất này còn nhiều dấu tích liên quan trực tiếp đến các nền minh cổ ở Việt Nam như văn hóa Tràng An, văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đa Bút, văn hóa Đông Sơn. Nơi đây có cố đô Hoa Lư từng là kinh đô của ba Triều đại nhà Đinh, Tiền Lê và Hậu Lý. Địa bàn hiểm trở ở vùng núi Ninh Bình là căn cứ quân sự của các Triều đại nhà Trần và Tây Sơn. Trong kháng chiến chống ngoại xâm nơi đây có phòng tuyến Tam Điệp, chiến khu Quỳnh Lưu, hành cung Vũ Lâm và là địa bàn trọng yếu của chiến dịch Hà Nam Ninh lịch sử. Những đặc điểm về lịch sử, văn hóa, tự nhiên và con người đã tạo cho vùng đất Ninh Bình một hệ thống các di tích phong phú và đa dạng góp phần phát triển ngành du lịch Ninh Bình. Quần thể danh thắng Tràng An bao gồm rất nhiều di tích với những giá trị nổi bật về thiên nhiên và văn hóa đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới hỗn hợp.
Tính đến năm 2020, Ninh Bình có 1.821 di tích[1], trong đó 447 đền, 343 ngôi chùa, 263 đình, 98 miếu, 51 phủ, 165 nhà thờ công giáo, 255 nhà thờ họ. Trong số đó khoảng 1000 di tích thuộc loại di tích hỗn hợp giữa thắng cảnh, khảo cổ, cách mạng, lịch sử và kiến trúc.[2], Có 3 di tích cấp quốc gia đặc biệt quan trọng là khu du lịch sinh thái Tràng An-Tam Cốc - Bích Động; Cố đô Hoa Lư và Núi Non Nước. Quần thể danh thắng Tràng An là di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới.
Ngoài các kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh, các di tích ở Ninh Bình nổi bật lên với tín ngưỡng thờ Vua, thờ Thánh, thờ Thần và chiếm số lượng lớn di tích liên quan đến hai Triều đại nhà Đinh - Tiền Lê.
Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía đông nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Hoa Lư cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam.
Ninh Bình xưa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn Lang. Qua thời thuộc Hán, Lương, vùng đất này thuộc Giao Chỉ, thời thuộc Đường, bắt đầu hình thành Trường Châu. Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân lên ngôi hoàng đế đóng đô tại Hoa Lư và đổi tên gọi Trường Châu thành Trường An. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, Ninh Bình nằm trong phủ Trường An, sau đổi là châu Đại Hoàng vào cuối thế kỷ 12. Đời nhà Trần đổi thành lộ, rồi lại đổi thành trấn Thiên Quan. Đời Lê Thái Tông, Ninh Bình sáp nhập vào Thanh Hóa; đời vua Lê Thánh Tông trở thành thủ phủ trấn trấn Sơn Nam xong rồi lại thuộc về Thanh Hóa cho tới đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Thời nhà Nguyễn, địa bàn Ninh Bình là 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan.
Năm 1831, Ninh Bình trở thành một trong số 13 tỉnh ở Bắc Kỳ với 6 huyện Yên Khánh, Nho Quan, Kim Sơn, Gia Khánh, Gia Viễn và Yên Mô, thuộc Liên khu 3. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng 8 năm 1991[3].
Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc có đỉnh Mây Bạc với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất Ninh Bình.[4] Vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim Sơn. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hiện 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ.
Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa Ninh Bình tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động vật trên cạn ở núi Ba (Tam Điệp) thuộc nền văn hóa Tràng An sơ kỳ đồ đá cũ; động Người Xưa (Cúc Phương) và một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình. Sau thời kỳ văn hoá Hoà Bình, vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình là nơi định cư của con người thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng Vườn (Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng. Cư dân cổ di chỉ Đồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ở giai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu.
Vùng đất Ninh Bình là kinh đô Hoa Lư của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba Triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo vệ Thăng Long của Triều đại Tây Sơn với phòng tuyến Tam Điệp, là căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông với hành cung Vũ Lâm, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô...
Thế kỷ XVI - XVII, đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình, dần dần hình thành trung tâm Thiên chúa giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn với 60% tổng số giáo dân toàn tỉnh.[5] Bên cạnh văn hoá của cư dân Việt cổ, Ninh Bình còn có "văn hoá mới" của cư dân ven biển. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình. Những địa danh cửa biển như: Phúc Thành, Đại An, Con Mèo Yên Mô, cửa Càn, cửa biển Thần Phù cùng với các con đê lịch sử như đê Hồng Đức, đê Hồng Lĩnh, đê Đường Quan, đê Hồng Ân, đê Hoành Trực, đê Văn Hải, đê Bình Minh I, đê Bình Minh II... Cho đến nay vùng đất Ninh Bình vẫn tiến ra biển mỗi năm gần 100 m. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng không gian văn hoá Việt xuống biển Đông, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoá từ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng nổi bật như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo, nuôi cua... Nếp sống của cư dân lấn biển mang tính chất động trong vùng văn hoá môi trường đất mở.
Dãy núi đá vôi ngập nước tạo ra nhiều hang động kỳ thú như: Tam Cốc, Bích Động, động Vân Trình, động Tiên, động Thiên Hà, Tràng An, động Mã Tiên... Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động", Địch Lộng là "Nam thiên đệ tam động". Ở phía nam thành phố Hoa Lư có một quả núi giống hình một người thiếu nữ nằm ngửa nhìn trời gọi là núi Ngọc Mỹ Nhân. Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diện mạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu ấn văn hoá của các tao nhân mặc khách khi qua vùng sơn thanh thủy tú này. Các đế vương, công hầu, khanh tướng, danh nhân văn hoá lớn như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Xuân Quỳnh về đây, xếp gương, đề bút, sông núi hoá thành thi ca. Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đó đã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thụ, sáng tạo, làm giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình.
Vùng đất Ninh Bình còn là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Trương Hán Siêu, Lý Quốc Sư, Vũ Duy Thanh, Lương Văn Tụy, Ninh Tốn, Nguyễn Bặc, Đinh Điền...
Hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình gắn liền với tín ngưỡng của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần thông qua các đền thờ Vua (đặc biệt là các Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Thái Tông, Quang Trung và Triệu Quang Phục với số lượng vài chục đền thờ mỗi vị); thờ Thánh (Nguyễn Minh Không và các tổ nghề); thờ Thần (phổ biến là các vị thần Thiên Tôn, thần Cao Sơn và thần Quý Minh trong không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn).
Ninh Bình là địa bàn có nhiều di tích khảo cổ học thuộc các thời kỳ văn hóa Tràng An, Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút và Đông Sơn:
Quần thể danh thắng Tràng An là một địa danh du lịch tổng hợp gồm các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận ở Ninh Bình, Việt Nam. Nhiều di tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư... Liên kết giữa các khu du lịch này là khu rừng đặc dụng Hoa Lư trên núi đá vôi và hệ thống sông, hồ, đầm với diện tích khoảng 12.000 ha.
Quần thể danh thắng Tràng An nằm ở khu vực ranh giới giữa huyện Hoa Lư với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, thành phố Tam Điệp và thành phố Ninh Bình. Về mặt hành chính, Tràng An nằm trên 9 xã: Trường Yên, Ninh Hải, Ninh Hòa, Ninh Vân, Ninh Nhất, phường Tân Thành (thành phố Hoa Lư); Gia Sinh (Gia Viễn); Yên Bình, Yên Sơn (Tam Điệp) và Phúc Sơn, (Nho Quan) nhưng Tràng An không bao trùm hoàn toàn lên 1 xã nào.
Vùng lõi Tràng An có diện tích hơn 4.000 ha, là vùng bảo vệ đặc biệt của danh thắng. Vùng bảo vệ đặc biệt này nằm trọn trong quy hoạch khu du lịch Tràng An với diện tích 12.000 ha. Quần thể danh thắng Tràng An nằm gần các Quốc lộ 1, QL38B, QL12B và trong tứ giác nước được giới hạn bởi các sông: sông Hoàng Long ở phía Bắc; sông Chanh ở phía Đông; sông Hệ ở phía Nam và sông Bến Đang ở phía Tây.
Ninh Bình có 3 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, bao gồm:
Dưới đây là danh sách các di tích được xếp hạng cấp quốc gia, bao gồm cả các di tích thuộc Quần thể di sản thế giới Tràng An:
TT | Di tích | Địa điểm | Giá trị nổi bật |
---|---|---|---|
1 | Đền Vua Đinh Tiên Hoàng | Trường Yên - Hoa Lư | Đền Vua Đinh là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của quần thể di sản cố đô Hoa Lư. Vị trí của đền thuộc trung tâm thành Đông của kinh đô Hoa Lư xưa. |
2 | Đền Vua Lê Đại Hành | Trường Yên - Hoa Lư | Đền Vua Lê là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của quần thể di sản cố đô Hoa Lư. Vị trí của đền thuộc trung tâm thành Đông của kinh đô Hoa Lư xưa. |
3 | Đền Thái Vi | Ninh Hải - Hoa Lư | Thờ các vua đầu nhà Trần: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải và hoàng hậu Thuận Thiên đã lập ra hành cung Vũ Lâm |
4 | Đền Suối Tiên | Ninh Hải - Hoa Lư | Thờ thần Quý Minh - vị thổ thần từ thời Hùng Vương được Đinh Tiên Hoàng đế phong trấn Nam Hoa Lư tứ trấn |
5 | Đền Trần | Trường Yên - Hoa Lư | Do Vua Đinh Tiên Hoàng cho lập để thờ thần Quý Minh, Vua Trần Thái Tông sau này đã xây dựng lại đền đá như kiến trúc hiện nay nên gọi là đền Trần. |
6 | Đền Trình | Trường Yên - Hoa Lư | Thờ 2 vị tướng nhà Đinh có công bảo vệ ấu chúa Đinh Toàn và tận trung với nhà Đinh, chống đối việc lên ngôi của Lê Hoàn. |
7 | Đền Tứ Trụ | Trường Yên - Hoa Lư | Thờ Tứ trụ triều Đình nhà Đinh: Tể tướng Nguyễn Bặc; Ngoại giáp Đinh Điền; Thượng thư Trịnh Tú; Thái sư Lưu Cơ. |
8 | Đền thờ Công chúa Phất Kim | Trường Yên - Hoa Lư | Nằm ở làng cổ Yên Thành, thờ Công chúa Phất Kim con gái Vua Đinh Tiên Hoàng, người được Vua Đinh gả cho sứ quân Ngô Nhật Khánh. |
9 | Động Thiên Hà | Sơn Hà - Nho Quan | Động Thiên Hà là hang động đẹp, gồm cả động khô và động ướt với đa dạng hệ thống nhũ đá vẫn được kiến tạo. Động chứa nhiều dấu vết để lại của cư dân Việt cổ. |
10 | Động Tiên Cá | Ninh Hải - Hoa Lư | Động xuyên thủy dài hơn 1500m có hệ thống nhũ đá muôn hình vạn trạng. Du khách được đi trên một hành lang bằng bè tre để xuyên vào trong lòng động. |
11 | Động Vái Giời | Ninh Hải - Hoa Lư | Động Vái Giời rộng khoảng 5000m2, cửa động nằm ở độ cao 439 bậc đá với 3 tầng "Trần gian, Địa ngục và Thiên đường" với nhiều măng nhũ đá lung linh huyền ảo. |
12 | Động, chùa Bích Động | Ninh Hải - Hoa Lư | Xuyên thủy động nằm trong lòng núi Bích Động, nơi có ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Hậu Lê. Danh thắng được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động" |
13 | Động Am Tiên | Trường Yên - Hoa Lư | Là pháp trường xử án thời Đinh, nơi gắn bó và tôn thờ các danh nhân: Trương Ma Ni, Thái hậu Dương Vân Nga và Quốc sư Nguyễn Minh Không. |
14 | Đình Yên Trạch | Trường Yên - Hoa Lư | TổngTrường Yên xưa gồm 7 làng cổ: Yên Thượng, Yên Thành, Yên Trung, Yên Hạ, Yên Trạch, Chi Phong và Lạc Hối. Ngôi đình trong làng cổ Yên Trạch thờ Đinh Tiên Hoàng. |
15 | Hang Bói | Trường Yên - Hoa Lư | Di chỉ khảo cổ học chứa đựng dấu ấn người tiền sử sinh sống tại Tràng An cách ngày nay từ 5.000 đến 30.000 năm. |
16 | Hang Mòi | Ninh Hải - Hoa Lư | Di chỉ khảo cổ học thể hiện cư dân Tràng An sống ở 2 trạng thái môi trường khác nhau: lục địa và biển; mức sớm từ 7.000 đến 10.000 năm, muộn từ 3.500 đến 6.000 năm. |
17 | Hang Trống | Ninh Hải - Hoa Lư | Di chỉ khảo cổ học hang Trống là hang động có nhiều di vật, dấu tích của người tiền sử từ 3.000-30.000 năm trước thuộc nền văn hóa Tràng An |
18 | Hang Bụt | Ninh Hải - Hoa Lư | Hang Bụt là một hang đá tự nhiên dài 500m, xuyên thủy qua núi Tướng. Nơi rộng nhất tới 70m, trần hang cao khoảng 30m, hang có hệ thống nhũ đá lung linh kỳ ảo. |
19 | Hành cung Vũ Lâm | Ninh Xuân - Hoa Lư | Là căn cứ quân sự do Các vua đầu nhà Trần lập để củng cố lực lượng trong kháng chiến Nguyên Mông. Đây còn là nơi các vua Trần xuất gia tu hành, mở mang Phật giáo. |
20 | Phủ Khống | Trường Yên - Hoa Lư | Thờ 7 vị quan trung thần với triều Đinh và Vị quan trấn ải nơi đây đã lập đền thờ và trồng cây thị đặc biệt ở bên cạnh phủ. |
21 | Vườn chim Thung Nham | Vườn chim trải rộng trên diện tích hơn 300ha, là nơi cư trú của khoảng 40.000 con, khoảng 5.000 tổ chim các loại, thuộc 46 loài chim, nhiều loài trong sách Đỏ VN. | |
22 | Chùa Duyên Ninh | Trường Yên - Hoa Lư | Chùa Duyên Ninh được xem là một trong những ngôi chùa cầu duyên nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Chùa được xây dựng từ thế kỷ X dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng. |
23 | Chùa Bà Ngô | Trường Yên - Hoa Lư | Chùa Bà Ngô là một di tích thuộc quần thể di tích quốc gia đặc biệt cố đô Hoa Lư, chùa được xây từ thời nhà Đinh, gắn với vị hoàng hậu là bà Ngô phu nhân. |
24 | Chùa Nhất Trụ | Trường Yên - Hoa Lư | Chùa cổ thời Tiền Lê, nơi có bảo vật quốc gia cột kinh bằng đá với nhiều dấu tích minh chứng cho sự phát triển rực rỡ của Phật giáo Hoa Lư thế kỷ X. |
25 | Chùa Kim Ngân | Trường Yên - Hoa Lư | Ngôi chùa cổ từ thời Đinh, thuộc làng Chi Phong - thành Tây kinh đô Hoa Lư là nơi sinh ra Vua Lý Thái Tông đồng thời là ngôi chùa cầu duyên nổi tiếng ở Việt Nam. |
26 | Hang Muối | Trường Yên - Hoa Lư | Hang Muối nằm ở gần sông Sào Khê thuộc phạm vi thành Đông kinh đô Hoa Lư, tương truyền là nơi cất giữ muối, lương thực. |
27 | Hang Quàn | Trường Yên - Hoa Lư | Hang Quàn nằm trong ngọn núi là tường thành Đông của kinh đô Hoa Lư, tương truyền là nơi các quan sử dụng kỹ thuật ướp xác để bảo vệ thi thể Vua Đinh. |
28 | Núi Chùa Am | Trường Yên - Hoa Lư | Núi có 2 ngôi chùa thời Đinh. Chùa Am thuộc thôn Yên Trung, nằm ở phía tây bắc núi; chùa Đìa thuộc thôn Yên Thành, nằm ở phía đông nam núi Đìa, xã Trường Yên. |
29 | Tam Cốc | Ninh Hải - Hoa Lư | Danh thắng Tam Cốc gồm cảnh quan thiên nhiên 2 bên sông Ngô Đồng đâm xuyên qua núi tạo ra 3 hang động xuyên thủy. |
30 | Phủ Đông Vương | Trường Yên - Hoa Lư | Phủ Đông Vương nằm biệt lập. Thờ Hoàng tử Đông Thành Vương Lê Ngân Tích, con thứ hai của Vua Lê Đại Hành. |
31 | Phủ Vườn Thiên | Trường Yên - Hoa Lư | Phủ Vườn Thiên nằm ở làng cổ Yên Thành. Thờ Thái tử Kình Thiên Vương Lê Long Thâu là thái tử, con cả Vua Lê Đại Hành nên còn gọi là phủ Kình Thiên. |
32 | Bia Cửa Đông | Trường Yên - Hoa Lư | Bia Cửa Đông (bia hang Thầy Bói) được tạc dưới chân núi Đầm, gọi cửa thành này là Đông Môn, là nơi bá quan văn võ triều Đinh Lê qua lại mỗi khi vào triều bệ kiến. |
33 | Lăng vua Đinh, lăng vua Lê | Trường Yên - Hoa Lư | Lăng Vua Đinh Tiên Hoàng nằm trên núi Mã Yên còn lăng Vua Lê Đại Hành nằm ở dưới chân núi Mã Yên; thuộc phạm vi thành Đông kinh đô Hoa Lư. |
34 | Núi chùa Bái Đính | Gia Sinh - Gia Viễn | Nơi có khu chùa cổ với hang động, đền thờ thần Cao Sơn có từ thời Đinh và Khu chùa mới với nhiều kỷ lục Việt Nam và châu Á được xác lập. |
35 | Núi Non Nước | Thanh Bình - Hoa Lư | Núi nổi tiếng với hơn 100 bài thơ khắc lên đá. Trên núi có lầu đón gió và Tượng đài anh hùng Lương Văn Tụy. Chân núi là chùa Non Nước và đền Trương Hán Siêu. |
36 | Núi Cánh Diều | Thanh Bình - Hoa Lư | Ngọn núi có hình cô gái tóc xõa mình trần nằm giữa thanh thiên trời đất. Bên núi có chùa Cánh Diều và đền thờ thần Thiên Tôn trấn đông Hoa Lư tứ trấn |
37 | Chùa A Nậu | Ninh Khánh - Hoa Lư | Một trong những ngôi chùa cổ thời Trần do Trần Thái Tông xây dựng khi về Ninh Bình lập hành cung Vũ Lâm trong kháng chiến Nguyên Mông |
38 | Chùa Đẩu Long | Tân Thành - Hoa Lư | Chùa Đẩu Long là ngôi chùa cổ, có lịch sử hình thành từ thời Đinh - Lê thế kỷ X. Chùa là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, thờ 9 vị thần của các làng xung quanh. |
39 | Động Thiên Tôn | Thiên Tôn - Hoa Lư | Động chùa Thiên Tôn là di tích thờ thần Thiên Tôn, là vị thiên thần trấn ngự ở cửa ngõ phía đông vào thành Đông của khu di tích cố đô Hoa Lư. |
40 | Chùa Trung Trữ | Ninh Giang - Hoa Lư | Chùa Trung Trữ là di tích cấp quốc gia từ năm 1990. Chùa cùng khu vực với đình Trung Trữ thờ các vị vua và hoàng hậu triều đại nhà Đinh và Tiền Lê. |
41 | Đền Cả La Mai | Ninh Giang - Hoa Lư | Đền Cả La Mai được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1994; làng La Mai ở ven sông Đáy, thờ Thánh Quý Minh - vị thần trấn Nam Hoa Lư tứ trấn |
42 | Chùa Phong Phú | Ninh Giang - Hoa Lư | Chùa Phong Phú có từ thời Đinh Tiên Hoàng (thế kỷ X), thờ thần Trấn Vũ Thiên Tôn. Người xưa đa khéo lợi dụng hang động trong ruột núi để làm chùa. |
43 | Đền Đông Hội | Ninh An - Hoa Lư | Đền Đông Hội là một trong các di tích có sớm nhất Ninh Bình, từ thời Hai Bà Trưng gọi là Chùa Thanh Xuân. Đền thờ ba anh em, là Đống Bụt, Diệu Vũ và Ngọc nữ Trần Hoa. |
44 | Nhà thờ họ Đào | Ninh An - Hoa Lư | Nhà thờ họ Đào ở Hoa Lư là nhà thờ họ duy nhất tại tỉnh Ninh Bình được công nhận là di tích cấp quốc gia. Nhà thờ nằm trên một khu đất cao, rộng quay hướng chính đông. |
45 | Đền Kê Thượng, Kê Hạ, Miếu Sơn | Ninh Vân - Hoa Lư | Đền Kê Thượng thờ vọng Hùng Vương và Tản Viên. Đền Kê Hạ thờ Nguyệt Nga Công Chúa. Đền Miễu Sơn thờ Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh. |
46 | Chùa và động Bàn Long | Ninh Xuân - Hoa Lư | Chùa Bàn Long là chùa thiên tạo và nhân tạo, lấy động núi và con người làm chùa. Khi chúa Trịnh Sâm đã đến thăm, tay đề ba chữ lớn: “Bàn Long Tự” trên vách cửa động. |
47 | Chùa và động Hoa Sơn | Ninh Hoà - Hoa Lư | Tương truyền rằng động Hoa Sơn là nơi nuôi Ấu chúa thời vua Đinh. Trước đây động có tên là chùa Bà Đẻ, sau này khi vua Tự Đức đến thăm đổi tên động thành Hoa Sơn. |
48 | Đình Ngô Khê Hạ | Ninh Hoà - Hoa Lư | Đình Ngô Khê Hạ là một ngôi đình kiến trúc cổ, trong đình có tượng Định Quốc công Nguyễn Bặc và hơn 10 đạo sắc phong của các triều đại là những di vật lịch sử quý báu. |
49 | Đền Thánh Nguyễn | Gia Tiến, Gia Thắng - Gia Viễn | Là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia có giá trị đặc biệt ở Ninh Bình. Đền thờ thánh Nguyễn Minh Không trên quê hương ông. |
50 | Chùa và động Địch Lộng | Gia Thanh - Gia Viễn | Động Địch Lộng được mệnh danh là "Nam thiên đệ tam động". Động gồm quần thể hang động, núi, kiến trúc đình, chùa thờ Phật và quốc sư Nguyễn Minh Không. |
51 | Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh | Gia Phương - Gia Viễn | Đền Văn Bòng là di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng trên quê hương của ông. Đền cùng với khu di tích lăng Phát tích trên núi Kỳ Lân trở thành điểm du lịch về nguồn. |
52 | Động Hoa Lư | Gia Hưng - Gia Viễn | Động Hoa Lư là căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh trong quá trình gây dựng, chiêu binh để dẹp loạn 12 sứ quân. Động nằm trong quần thể đầm Cút, đầm Vân Long. |
53 | Đình Trùng Hạ | Gia Tân - Gia Viễn | Đình Trùng Hạ là di tích kiến trúc nghệ thuật thờ 5 vị: Đông Hải đại vương, Sóc Giang đại vương, Trang Hiền đại vương, Hưng Đạo đại vương và Quốc Mẫu. |
54 | Đình Trùng Thượng | Gia Tân - Gia Viễn | Đình Trùng Thượng là di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Đình thờ Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tảng và Đông Hải Đại Vương. |
55 | Đình Vân Thị | Gia Tân - Gia Viễn | Đình làng Vân Thị thờ Thái sư phụ chính Tô Hiến Thành được xây dựng năm 1699 - năm chính tòa thứ 20. Đến nay đã hơn 300 năm tuổi. |
56 | Chùa Lỗi Sơn | Gia Phong - Gia Viễn | Chùa Lỗi Sơn nằm trong chiến khu Quỳnh Lưu, chùa thờ Phật, còn thờ thêm Hai Bà Trưng và ba bài vị thờ 3 dũng tướng thời vua Hùng là Cao Sơn, Quý Minh và Tản Viên. |
57 | Chùa Lạc Khoái | Gia Lạc - Gia Viễn | Chùa Hạ xây dựng năm 1859, trước chùa Thượng 10 năm. Chùa Hạ thờ Phật và Tam vị Thánh Mẫu; chùa Thượng thờ Phật và Quan Âm Thị Kính. |
58 | Nhà thờ và mộ Nguyễn Bặc | Gia Phương - Gia Viễn | Di tích lịch sử Quốc gia Nhà thờ họ Nguyễn Việt Nam. Nơi thờ thái thủy tổ Nguyễn Bặc, được xem là thủy tổ của họ Nguyễn chính tông ở Việt Nam. |
59 | Nhà thờ Đinh Huy Đạo | Gia Phong - Gia Viễn | Nhà thờ Đinh Huy Đạo, một danh tướng thời Tây Sơn đối với cuộc chiến chống quân Thanh. Ông còn để lại cho đời nhiều bài văn, tác phẩm văn học có giá trị. |
60 | Khu vực núi Kiếm Lĩnh | Gia Tiến - Gia Viễn | Núi Cắm Gươm liên quan đến truyền thuyết chú của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Thúc Dự cắm kiếm xuống đất để lậy khi thấy Rồng vàng đưa cháu mình qua sông Hoàng Long. |
61 | Chiến khu Quỳnh Lưu | Nho Quan và Gia Viễn | Chiến khu Quỳnh Lưu trải rộng trên 7 xã, là căn cứ cách mạng thời ký kháng chiến chống Pháp và Nhật đồng thời được xem là quê hương cách mạng của Ninh Bình. |
62 | Dốc Giang | Phú Long - Nho Quan | Dốc Giang là di tích cách mạng nằm trên đường Quốc lộ 45 từ Rịa đi Sòng Cạn. Chiến thắng Dốc Giang năm 1953 đã tiêu diệt và bắt sống gần 200 tên Pháp. |
63 | Thung Lóng | Phú Long - Nho Quan | Tháng 6/1945 Thung Lóng được Xứ ủy Bắc Kỳ chọn làm điểm tổ chức nhiều cuộc họp bàn quan trọng và mở lớp huấn luyện cho các cán bộ và nhân dân địa phương. |
64 | Khu Trũng, Đồng Báng | Sơn Lai - Nho Quan | Khu Trũng, Đồng Báng thuộc xã Sơn Lai, là điểm di tích cách mạng thuộc khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, tỉnh Ninh Bình. |
65 | Đền Sầy | Sơn Thành - Nho Quan | Đền Sầy thờ Ngọc Quang Công Chúa tên húy là Vương Thị Tiên, một trong những nữ tướng thời Hai Bà Trưng. |
66 | Đình Mỹ Hạ | Gia Thủy - Nho Quan | Đình Mỹ Hạ là di tích lịch sử văn hóa trên quê hương của Thái hậu Dương Vân Nga và quê ngoại Vua Đinh Tiên Hoàng. Đình thờ Vua Đinh và Thái hậu Dương Vân Nga. |
67 | Đình Ác | Sơn Thành - Nho Quan | Đình làng Ác thờ Thủy Tinh Công chúa. Đình được xây dựng từ thời vua Trần. Lúc đầu đình được gọi là Hồng Kiều, sau gọi là đền Cầu Vồng, nay gọi là đình Làng Ác. |
68 | Phòng tuyến Tam Điệp | Đông Sơn và Nam Sơn, TĐ | Là Phòng tuyến kháng chiến thời Tây Sơn, nơi Vua Quang Trung tập hợp quân trước khi tiến ra Thăng Long làm lên chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. |
69 | Đền Năn | Yên Thắng - Yên Mô | Ngôi đền cổ này thờ 5 vị thần thời Hùng Vương thứ 6 trấn thủ vùng Nam Lĩnh là: Chàng Hoàng, Quý Nương, Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba. |
70 | Đền Bình Hải | Yên Nhân - Yên Mô | Thờ Linh Công - Vị tướng thời Hùng Vương được phong Đại Hải Long Hầu hiển hách Đại Vương Thượng Đẳng Thần. |
71 | Nhà thờ Vũ Phạm Khải, đền họ Vũ | Yên Mạc - Yên Mô | Thờ vị quan dưới 3 triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, tích cực nhất trong phái chủ chiến chống Pháp. Ông còn là một nhà thơ nổi tiếng đương thời. |
72 | Đền thờ Ninh Tốn | Yên Mỹ - Yên Mô | Thờ danh nhân văn hóa Ninh Tốn, một nhà thơ, nhà viết Sử, nhà biên soạn luật, nhà chính trị và nhà quân sự |
73 | Đền, chùa Khương Dụ | Yên Phong - Yên Mô | Đền, chùa Khương Dụ là cụm công trình di tích có giá trị kiến trúc và nghệ thuật |
74 | Đền Quảng Phúc | Yên Phong - Yên Mô | Thờ tam vị Ngọ Đại Vương – 3 vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, có công dẹp cướp biển ở cửa biển Thần Phù, dẹp cướp rừng ở vùng núi Tam Điệp. |
75 | Đền La | Yên Thành - Yên Mô | Đền Hậu Trần nằm trên vị trí kinh đô Mô Đô xưa, nay thuộc thôn La nên còn được gọi là đền La, nơi đây nhà Hậu Trần ra đời dưới sự bảo trợ của danh tướng quê hương Yên Mô là Trần Triệu Cơ. |
76 | Chùa Tháp | Khánh Thịnh - Yên Mô | Chùa Tháp là nơi có xá lỵ của tướng quân Đinh Điền thời Đinh cùng ngôi đền thờ ông và phu nhân cùng Kiều Mộc thiền sư Lương Tuấn - người theo giúp Đinh Điền. |
77 | Đình Phù Sa | Yên Lâm - Yên Mô | Đình Phù Sa nằm trong khu vực cửa biển Thần Phù, Đình là nơi thờ Triệu Việt Vương, người đã mất tại khu vực cửa biển Đại Ác này. |
78 | Đền Trung Lận Khê | Khánh Thượng - Yên Mô | Đền Trung Lận Khê là công trình di tích có giá trị kiến trúc, nghệ thuật |
79 | Đền thờ Thái phó Lê Niệm | Yên Mạc - Yên Mô | Lê Niệm cháu của Lê Lai, làm quan đời Lê Thái Tông. Khi đóng quân ở làng Thiên trì, ông đã chỉ huy đắp đê Hồng Đức và được cấp 200 mấu ruộng ở làng Thiên Trì. |
80 | Nhà thờ và mộ Vũ Duy Thanh | Khánh Hải - Yên Khánh | Nơi thờ Trạng Bồng Vũ Duy Thanh trên quê hương. Vũ Duy Thanh là vị thủ khoa thời Nguyễn tương đương Trạng nguyên xưa, ông được người dân tôn vinh là Trạng Bồng. |
81 | Đền Văn Giáp | Khánh An - Yên Khánh | Thờ vị lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần cùng 3 vị tể tướng và 18 vị quận công, các danh nhân họ Tạ. |
82 | Đền Thượng, chùa Phúc Long | Khánh Phú - Yên Khánh | Chùa Phúc Long thờ phật và thờ Tiên thiên Thánh Mẫu, mẹ của Giác Hải thiền sư. Đền Thượng thờ tam thánh: Giác Hải, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không. |
83 | Đình thôn Đỗ | Khánh Nhạc - Yên Khánh | Đình thôn Đỗ là di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu. Đình thôn Đỗ thờ Tề Hải Long Vương và các vị thành lập làng. |
84 | Đền chùa thôn Năm | Khánh Tiên - Yên Khánh | Đền chùa thôn Năm là cụm di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu. Đền thôn Năm thờ Tản Viên Sơn Thánh. |
85 | Chùa Dầu | Khánh Hoà - Yên Khánh | Chùa Dầu có từ thời Lý Thái Tông nhưng hiện có nhiều dấu tích của triều đại nhà Trần khi các Vua đời đầu đã về xây dựng hành cũng Vũ Lâm. |
86 | Đền Kiến Ốc | Khánh Trung - Yên Khánh | Thờ Phạm Tử Nghi là tướng thời nhà Mạc, ông còn được thờ ở Đền Hải Đức trên bờ đê sông Đáy thuộc xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. |
87 | Đền Tiên Viên, chùa Kim Rong | Khánh Lợi - Yên Khánh | Thờ Phùng Kim và Triệu Việt Vương - những danh nhân lịch sử từ thế kỷ V. Đây là một trong những di tích lịch sử văn hóa cổ nhất ở Ninh Bình. |
88 | Chùa Phúc Nhạc | Khánh Nhạc - Yên Khánh | Chùa “Già Lê Tự” hơn 400 năm tuổi còn là bản doanh của Nguyễn Công Trứ khi chiêu mộ nhân dân quanh vùng, khẩn hoang lấn biển thành lập huyện Kim Sơn năm 1829. |
89 | Đền Tam Thánh, chùa Yên Lữ | Khánh An - Yên Khánh | Đền Tam Thánh thờ Đinh Điền, Kiều Mộc thiền sư Lương Tuấn và Thượng Trân Trưởng công chúa là những danh nhân thời Đinh. Chùa Yên Lữ được xây dựng từ năm 1019. |
90 | Đền thờ Nguyễn Công Trứ | Quang Thiện - Kim Sơn | Đền thờ Nguyễn Công Trứ nằm tại trung tâm vùng đất Kim Sơn xưa, nơi ông chiêu dân khai khẩn bãi hoang ven biển để lập ra huyện này từ năm 1829 |
91 | Nhà thờ đá Phát Diệm | Lưu Phương - Kim Sơn | Quần thể kiến trúc nhà thờ Phát Diệm với những công trình kiến trúc độc đáo, là trung tâm của giáo phận, nơi được mệnh danh là kinh đô công giáo của Việt Nam. |
92 | Đình Thượng Kiệm | Thượng Kiệm - Kim Sơn | Đình Thượng Kiệm là nơi thờ Triệu Việt Vương. Đình nằm gần kiến trúc nhà thờ Phát Diệm. |
93 | Đền Chất Thành | Chất Bình - Kim Sơn | Đền Chất Thành là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Đền thờ Triệu Việt Vương trên vị trí gần cửa biển Đại Ác khi xưa ông đã mất. |
94 | Miếu, chùa Lạc Thiện | Quang Thiện - Kim Sơn | Miếu, chùa Lạc Thiện là cụm di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị tiêu biểu |
95 | Đền Như Độ | Như Hòa - Kim Sơn | Thờ quan Thái bảo Trần Nguyên Hãng là hậu duệ nhà Trần, có công đánh giặc Nguyên Mông, thờ cụ Doãn Dư cùng các vị có công khai hoang lấn biển lập nên Ấp Như Độ. |
Ninh Bình hiện có 279 di tích cấp tỉnh.[6] Dưới đây là danh sách chưa đầy đủ các di tích cấp tỉnh ở Ninh Bình:
|
|
Hoa Lư - Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam dưới thời nhà Đinh (968-980) và nhà Tiền Lê (980-1009). Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật giáo. Theo các thư tịch và dấu vết còn sót lại, vào thế kỷ 10, tại đây đã có khá nhiều chùa tháp. Theo chính sử, Vua Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đặt chức tăng thống Phật giáo trong lịch sử mà quốc sư đầu tiên của Việt Nam là Khuông Việt. Ninh Bình cũng là quê hương của quốc sư triều Lý Nguyễn Minh Không, ông đã sáng lập ra ở quê hương mình khá nhiều chùa tháp như: chùa Bái Đính, chùa Địch Lộng, động chùa Am Tiên, chùa Non Nước... Ở Việt Nam có 3 chùa động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động" là chùa Hương, chùa Bích Động, chùa Địch Lộng thì 2 trong số đó nằm ở Ninh Bình. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa mà tiêu biểu là các động chùa: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Bích Động, Địch Lộng, Bái Đính, Linh Cốc…
Tỉnh Ninh Bình hiện có 343 ngôi chùa, phân bố như sau: Yên Mô: 66 chùa, Yên Khánh: 55 chùa, Gia Viễn: 50 chùa, Hoa Lư: 57 chùa, Nho Quan: 49 chùa, thành phố Ninh Bình 42 chùa, Kim Sơn: 17 chùa, Tam Điệp: 8 chùa.[7] Chỉ riêng trên địa bàn xã Trường Yên, Hoa Lư hiện có 8 ngôi chùa cổ thuộc cố đô Hoa Lư là chùa Nhất Trụ, chùa Kim Ngân, chùa Duyên Ninh, chùa Am Tiên, chùa Cổ Am, chùa Bà Ngô, chùa Am Thong Bái, chùa Bi Yên Hạ đều được xếp hạng di tích.
Về niên đại xây dựng, chủ yếu các chùa thuộc vùng cố đô Hoa Lư được xây dựng từ thời Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành; rất nhiều chùa được xây dựng thời Trần và Hậu Lê.
Một số chùa nổi tiếng như:
Địa bàn Ninh Bình thuộc Giáo phận Phát Diệm, vốn là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam[13][14][15]. Đây là giáo phận đầu tiên ở Việt Nam được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam cai quản thay cho các giáo sĩ truyền giáo ngoại quốc, vì thế mà nơi đây được ví như "kinh đô của Công giáo" ở Việt Nam.[16].
Địa giới giáo phận Phát Diệm rộng 1.787 km². Năm 2004, giáo phận Phát Diệm có khoảng 144.721 giáo dân (15,9% dân số), 31 linh mục và 76 giáo xứ[17]. Nhà thờ Đức mẹ Mân Côi (còn gọi là nhà thờ đá Phát Diệm) ở thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn tỉnh (Ninh Bình) được chỉ định làm nhà thờ chính tòa của giáo phận[18].
Mặc dù giáo phận Phát Diệm nằm trên diện tích rộng 1.787 km², bao gồm toàn bộ tỉnh Ninh Bình và vùng phía nam tỉnh Hòa Bình nhưng mật độ giáo dân lại tập trung nhiều ở huyện Kim Sơn với 80.000 giáo dân và 32 giáo xứ, chiếm 55% tổng số giáo dân của giáo phận mặc dù diện tích chỉ chiếm 11,6% tổng diện tích giáo phận. Do đó, các nhà thờ công giáo ở Ninh Bình tập trung dày đặc ở huyện Kim Sơn.
Ninh Bình là vùng đất phong phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ, lễ hội đền Thái Vi... Các lễ hội khác: Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, lễ hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, đền Thánh Nguyễn, đền Dâu, hội vật Yên Vệ, lễ hội đền Trần Ninh Bình... Ninh Bình là đất tổ của nghệ thuật hát Chèo, là quê hương các làn điệu hát xẩm, ca trù và của nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu khắc đá Ninh Vân - Hệ Dưỡng, Xuân Vũ, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren Văn Lâm, nghề chiếu cói ở Kim Sơn...
Theo thống kê, Ninh Bình có 443 lễ hội truyền thống, trong đó quản lý cấp tỉnh 2 lễ hội, cấp huyện 13 lễ hội, cấp xã 428 lễ hội.[19] Các lễ hội văn hóa ở Ninh Bình chủ yếu diễn ra ở mùa xuân, trừ số ít các lễ hội tưởng niệm ngày mất của các vị danh nhân.