Grumman F2F | |
---|---|
F2F-1 thuộc phi đoàn VF-2B, USS Lexington (CV-2) | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích hải quân |
Hãng sản xuất | Grumman |
Thiết kế | Leroy Grumman |
Chuyến bay đầu tiên | 18 tháng 10-1933[1] |
Được giới thiệu | 1935 |
Ngừng hoạt động | 1940 |
Khách hàng chính | Hải quân Hoa Kỳ |
Được chế tạo | 1934-1935 |
Số lượng sản xuất | 55 |
Chi phí máy bay | 12.000 USD/chiếc (thời giá năm 1935)[2] |
Được phát triển từ | Grumman FF |
Grumman F2F là loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh, một động cơ, có kết cấu thiết bị hạ cánh có thể thu gọn vào thân, nó làm máy bay tiêm kích tiêu chuẩn cho Hải quân Hoa Kỳ giai đoạn 1936–1940. Nó được thiết kế để hoạt động trên tàu sân bay và trên sân bay đất liền.
Sau thành công của Grumman với mẫu tiêm kích hai chỗ FF-1, nó thậm chí còn nhanh hơn so với các loại tiêm kích một chỗ cùng thời, nên quân đội Mỹ tiếp tục ký hợp đồng về mẫu XF2F-1 một chỗ.[3] Nó trang bị 1 khẩu súng máy.30 caliber (7,62 mm), thiết kế mới cũng tích hợp các khoang kín nước để giảm trọng lượng và cải thiện khả năng sống sót khi hạ cánh khẩn cấp xuống nước.[2] Mẫu thử bay lần đầu ngày 18/10/1933, trang bị động cơ thử nghiệm 625 hp (466 kW) XR-1534-44 Twin Wasp Junior, và đạt vận tốc lớn nhất là 229 mph (369 km/h) trên độ cao 8.400 ft (2.600 m) - 22 mph (35 km/h), nhanh hơn so với FF-1 ở cùng độ cao.[2] Khả năng cơ động cũng tốt hơn máy bay hai chỗ trước đó.[3]
Hải quân đặt mua 54 chiếc tiêm kích F2F-1 vào ngày 17/5/1934, chiếc đầu tiên giao hàng ngày 19/1/1935. F2F được trang bị cho các phi đoàn ở tiền tuyến từ năm 1935 tới cuối năm 1939, sau đó chúng bị thay thế bởi F3F-3. Sau khi rút khỏi các phi đoàn ở tiền tuyến, chúng được hoán đổi để làm máy bay huấn luyện và các nhiệm vụ khác.[2]
United States Navy Aircraft since 1911 [4]