Klagenfurt Klagenfurt am Wörthersee | |
---|---|
Location of within Statutarstadt district | |
Vị trí của Klagenfurt ở Kärnten##Vị trí của Klagenfurt ở Áo | |
Quốc gia | Áo |
Bang | Kärnten |
Quận | Thành phố pháp định |
Chính quyền | |
• Thị trưởng | Maria-Luise Mathiaschitz (SPÖ) |
Diện tích[1] | |
• Tổng cộng | 120,12 km2 (4,638 mi2) |
Độ cao | 446 m (1,463 ft) |
Dân số (2018-01-01)[2][3] | |
• Tổng cộng | 100.316 |
• Mật độ | 8,4/km2 (22/mi2) |
Múi giờ | UTC+1, UTC+2 |
• Mùa hè (DST) | CEST (UTC+2) |
Mã bưu chính | 9020, 9061, 9063, 9065, 9073, 9201 |
Mã vùng | 0463 |
Biển số xe | K |
Thành phố kết nghĩa | Dachau, Dessau-Roßlau, Zalaegerszeg, Venlo, Nova Gorica, Gladsaxe Municipality, Tarragona, Nam Ninh, Rzeszów, Laval, Wiesbaden, Dushanbe, Chernivtsi, Gorizia, Nazareth, Sibiu, Udine, Nazareth Illit |
Website | www.klagenfurt.at |
Klagenfurt am Wörthersee[4] (tiếng Đức: [ˌklaːɡn̩fʊʁt ʔam ˈvœʁtɐzeː] ⓘ; Bayern: Klognfurt; Slovene: Celovec ob Vrbskem jezeru),[5] thường được gọi là Klagenfurt (tiếng Anh: /ˈklɑːɡənfʊərt/ KLAH-gən-foort), là thành phố thủ phủ của bang Kärnten, Áo. Với dân số 101,303 người (ngày 1 tháng 1 năm 2020), đây là thành phố lớn thứ 6 ở quốc gia này. Thành phố là nơi đặt giám mục của Giáo phận Công giáo La Mã Gurk-Klagenfurt và là nơi có Đại học Klagenfurt, Đại học Khoa học Ứng dụng Kärnten và Học viện Âm nhạc Gustav Mahler.
Thành phố Klagenfurt nằm ở miền nam nước Áo, nằm giữa đất nước, gần biên giới quốc tế. Nó nằm ở vùng dưới ở trung tâm Áo. Khoảng cách từ Klagenfurt đến Innsbruck ở phía tây bằng khoảng cách từ Klagenfurt đến Vienna ở phía đông bắc.
Klagenfurt có độ cao 446 mét (1.463 foot) so với mực nước biển và có diện tích 120,03 kilômét vuông (46,34 dặm vuông Anh). Nó nằm trên hồ Wörthersee và trên sông Glan. Thành phố được bao quanh bởi một số ngọn đồi và núi có rừng bao phủ với độ cao lên đến 1.000 m (3.300 ft) (Ulrichsberg). Ở phía nam của thành phố là dãy núi Karawanken, ngăn cách Kärnten với các quốc gia có chung biên giới là Slovenia và Ý.
Klagenfurt được chia thành 15 phường:
|
|
Các phường lại được chia thành 25 khu phố (Katastralgemeinde): Klagenfurt, Blasendorf, Ehrenthal, Goritschitzen, Großbuch, Großponfeld, Gurlitsch I, Hallegg, Hörtendorf, Kleinbuch, Lendorf, Marolla, Nagra, Neudorf, St. Martin bei Klagenfurt, St. Peter am Karlsberg, St. Peter bei Ebenthal, Sankt Peter am Bichl, St. Ruprecht bei Klagenfurt, Stein, Tentschach, Viktring, Waidmannsdorf, Waltendorf, và Welzenegg.
Klagenfurt có khí hậu lục địa điển hình, có sương mù vào mùa Hè và mùa Đông. Mùa Đông khá lạnh nhưng có các đợt gió phơn từ núi Karawanken ấm ơn thổi vào. Nhiệt độ trung bình từ năm 1961 đến năm 1990 là 7,1 °C, còn nhiệt độ trung bình năm 2005 là 9,3 °C.
Dữ liệu khí hậu của Klagenfurt (1981–2010) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 15.7 (60.3) |
21.5 (70.7) |
24.0 (75.2) |
27.0 (80.6) |
32.4 (90.3) |
35.3 (95.5) |
35.8 (96.4) |
36.6 (97.9) |
30.7 (87.3) |
25.2 (77.4) |
21.5 (70.7) |
16.6 (61.9) |
36.6 (97.9) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 0.6 (33.1) |
4.8 (40.6) |
10.7 (51.3) |
15.6 (60.1) |
21.0 (69.8) |
24.2 (75.6) |
26.5 (79.7) |
25.6 (78.1) |
20.7 (69.3) |
14.6 (58.3) |
6.7 (44.1) |
1.1 (34.0) |
14.3 (57.7) |
Trung bình ngày °C (°F) | −2.8 (27.0) |
−0.4 (31.3) |
4.3 (39.7) |
9.3 (48.7) |
14.4 (57.9) |
17.8 (64.0) |
19.8 (67.6) |
19.0 (66.2) |
14.3 (57.7) |
9.3 (48.7) |
3.1 (37.6) |
−1.4 (29.5) |
8.9 (48.0) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −7.1 (19.2) |
−5.6 (21.9) |
−1.2 (29.8) |
3.4 (38.1) |
8.4 (47.1) |
11.8 (53.2) |
13.5 (56.3) |
13.2 (55.8) |
9.3 (48.7) |
5.1 (41.2) |
−0.2 (31.6) |
−4.8 (23.4) |
3.8 (38.8) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −25.1 (−13.2) |
−25.6 (−14.1) |
−18.8 (−1.8) |
−5.9 (21.4) |
−2.0 (28.4) |
2.1 (35.8) |
3.0 (37.4) |
3.4 (38.1) |
−1.0 (30.2) |
−8.9 (16.0) |
−17.4 (0.7) |
−21.8 (−7.2) |
−25.6 (−14.1) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 26 (1.0) |
29 (1.1) |
51 (2.0) |
62 (2.4) |
80 (3.1) |
105 (4.1) |
113 (4.4) |
126 (5.0) |
92 (3.6) |
84 (3.3) |
76 (3.0) |
51 (2.0) |
893 (35.2) |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) (at 14:00) | 76.5 | 60.7 | 52.0 | 48.7 | 49.2 | 50.1 | 49.1 | 51.3 | 55.3 | 63.6 | 74.0 | 80.6 | 59.3 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 90 | 140 | 170 | 184 | 223 | 226 | 255 | 239 | 189 | 128 | 74 | 62 | 1.981 |
Phần trăm nắng có thể | 35.7 | 53.3 | 49.8 | 48.9 | 50.8 | 51.1 | 57.1 | 57.6 | 53.0 | 41.3 | 27.0 | 24.8 | 45.9 |
Nguồn: Central Institute for Meteorology and Geodynamics[6][7][8][9][10] |
Dữ liệu khí hậu của Klagenfurt (1971–2000) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 16.4 (61.5) |
21.5 (70.7) |
24.0 (75.2) |
26.7 (80.1) |
31.4 (88.5) |
33.1 (91.6) |
35.8 (96.4) |
35.5 (95.9) |
29.7 (85.5) |
26.3 (79.3) |
18.3 (64.9) |
16.6 (61.9) |
35.8 (96.4) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 0.3 (32.5) |
4.4 (39.9) |
10.3 (50.5) |
14.9 (58.8) |
20.2 (68.4) |
23.4 (74.1) |
25.5 (77.9) |
25.1 (77.2) |
20.6 (69.1) |
14.2 (57.6) |
5.8 (42.4) |
0.8 (33.4) |
13.8 (56.8) |
Trung bình ngày °C (°F) | −4 (25) |
−1.4 (29.5) |
3.6 (38.5) |
8.3 (46.9) |
13.7 (56.7) |
16.9 (62.4) |
18.8 (65.8) |
18.2 (64.8) |
13.8 (56.8) |
8.2 (46.8) |
1.7 (35.1) |
−2.7 (27.1) |
7.9 (46.2) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −7.2 (19.0) |
−5.4 (22.3) |
−1.3 (29.7) |
2.8 (37.0) |
7.8 (46.0) |
11.1 (52.0) |
12.9 (55.2) |
12.7 (54.9) |
9.0 (48.2) |
4.3 (39.7) |
−1 (30) |
−5.2 (22.6) |
3.4 (38.1) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −25.1 (−13.2) |
−25.6 (−14.1) |
−19.1 (−2.4) |
−5.9 (21.4) |
−2.2 (28.0) |
1.9 (35.4) |
3.0 (37.4) |
3.4 (38.1) |
−1.6 (29.1) |
−8.9 (16.0) |
−17.4 (0.7) |
−28.1 (−18.6) |
−28.1 (−18.6) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 30.9 (1.22) |
35.2 (1.39) |
50.2 (1.98) |
64.5 (2.54) |
78.5 (3.09) |
113.5 (4.47) |
117.6 (4.63) |
98.6 (3.88) |
89.7 (3.53) |
82.9 (3.26) |
78.9 (3.11) |
48.9 (1.93) |
889.4 (35.02) |
Lượng tuyết rơi trung bình cm (inches) | 17.5 (6.9) |
20.4 (8.0) |
9.9 (3.9) |
5.1 (2.0) |
0.8 (0.3) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.3 (0.1) |
10.1 (4.0) |
20.0 (7.9) |
84.1 (33.1) |
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 1.0 mm) | 5.1 | 4.9 | 6.2 | 8.0 | 9.6 | 11.5 | 10.2 | 9.4 | 7.2 | 7.3 | 7.1 | 5.4 | 91.9 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) (at 14:00) | 78.0 | 63.9 | 52.6 | 47.8 | 49.0 | 50.6 | 50.3 | 51.4 | 65.8 | 63.0 | 76.1 | 81.9 | 60.0 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 78.8 | 123.0 | 158.3 | 175.2 | 212.5 | 217.5 | 241.2 | 233.0 | 180.5 | 125.6 | 66.0 | 57.4 | 1.869 |
Phần trăm nắng có thể | 31.2 | 46.6 | 46.2 | 46.5 | 48.5 | 49.2 | 53.9 | 56.1 | 50.7 | 40.8 | 24.1 | 23.1 | 43.1 |
Nguồn: Central Institute for Meteorology and Geodynamics[11] |
Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng ở Kärnten là Primus Lessiak và Eberhard Kranzmayer cho rằng tên của thành phố dịch theo nghĩa đen là "nơi than khóc" (ford of lament) hoặc "nơi than thở" (ford of complaints), có liên quan gì đó đến suy nghĩ mê tín rằng các nàng tiên hoặc ác quỷ định mệnh có xu hướng sống quanh vùng nước nguy hiểm hoặc đầm lầy. Trong văn hóa Slovene cổ, cviljovec là một nơi bị ám bởi một hồn ma nữ khóc lóc hay cvilya.[12] Do đó, họ cho rằng tên của Klagenfurt là một bản dịch của những người Đức từ tên gốc trong tiếng Slovene của vùng đất ngập nước lân cận. Tuy nhiên, việc người Slovene đề cập đến Klagenfurt sớm nhất dưới dạng "v Zelouzi" ('in Celovec', tên người Slovene đặt cho Klagenfurt) có từ năm 1615[13] (cách đây hơn 400 năm) và do đó có thể là một bản dịch từ tiếng Đức. Mặt khác, cách giải thích mới nhất là bản thân từ cviljovec của người Slovene cổ trở lại thành l'aquiliu in nghiêng có nghĩa là một địa điểm tại hoặc dưới nước, điều này sẽ làm cho lý thuyết đầm lầy than khóc trở nên lỗi thời.[14]
Các học giả đã nhiều lần cố gắng giải thích cái tên đặc biệt của thành phố: Vào thế kỷ 14, tu viện trưởng kiêm nhà sử học Johann von Viktring đã dịch tên của Klagenfurt trong cuốn sử học Liber certarum của ông là Queremoniae Vadus, tức là "lời phàn nàn", Hieronymus Megiser, Bậc thầy của trường đại học Quý tộc Kärnten ở Klagenfurt và là người biên tập cuốn lịch sử được in sớm nhất của công quốc vào năm 1612, được cho là đã tìm ra nguồn gốc của cái tên trong một "nơi đi qua sông Glan"[15], tuy nhiên, điều này là không thể lý do ngôn ngữ. Dân gian cũng có lời giải thích riêng như sau: Một người thợ làm bánh học việc bị buộc tội trộm cắp và bị xử tử nhưng khi vài ngày sau đó, hành vi trộm cắp được cho là do nhầm lẫn và anh ta được chứng minh là hoàn toàn vô tội, người dân "than thở" ( 'Klagen') đã đi tới đi lui". Câu chuyện này được kể lại bởi Aeneas Silvius Piccolomini, người sau này trở thành Giáo hoàng Piô II.[16]
Năm 2007, thành phố đổi tên chính thức thành "Klagenfurt am Wörthersee" (tức là Klagenfurt trên Hồ Wörthersee). Tuy nhiên, vì không có nơi nào khác mang tên Klagenfurt nữa nên cái tên ngắn hơn trước đó vẫn còn phổ biến.
Truyền thuyết kể rằng Klagenfurt được thành lập sau khi một vài dũng sĩ đã giết chết "Lindwurm" đáng ghê tởm (một con rồng có cánh ở đồng hoang gần hồ, thường ăn thịt các trinh nữ). Truyền thuyết kể rằng con rồng đã bị đánh bại bởi một con bò đực béo trên sợi xích mà những người đàn ông đã gắn trên một tòa tháp vững chắc. Kỳ tích được tưởng nhớ bởi một tượng đài thời Phục hưng hoành tráng nặng 9 tấn ở trung tâm thành phố.
Trong lịch sử, nơi này được thành lập bởi Công tước Spanheim Herman như một thành trì nằm trên các tuyến đường thương mại trong khu vực. Lần đầu tiên nơi này được nhắc tới là từ cuối thế kỷ 12 trong một tài liệu trong đó Công tước Ulric II. Miễn phí cho Tu viện Thánh Paul ở "foro Chlagenvurth".[17] Khu định cư đó nằm trong khu vực thường xuyên bị ngập lụt, vì vậy vào năm 1246, con trai của Công tước Herman, Công tước Bernhard von Spanheim đã chuyển nó đến một vị trí an toàn hơn và do đó được coi là người sáng lập thực sự của khu chợ vào năm 1252 đã nhận được một hiến chương thành phố.
Trong những thế kỷ tiếp theo, Klagenfurt hứng chịu hỏa hoạn, động đất, nạn châu chấu và các cuộc tấn công từ người Ottoman Hồi giáo và bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh nông dân. Năm 1514, một trận hỏa hoạn gần như thiêu rụi hoàn toàn thành phố và vào năm 1518, Hoàng đế Maximilian I đã không đủ khả năng xây dựng lại nó. Dù bị người dân phản đối, ông đã nhượng lại Klagenfurt cho giới quý tộc của Công quốc. Trước đây chưa từng có chuyện như vậy xảy ra. Tuy nhiên, các chủ sở hữu mới đã mang lại sự phục hưng kinh tế và sự thăng tiến về chính trị và văn hóa ở Klagenfurt. Một con kênh được đào để nối thành phố với hồ như một con đường vận chuyển gỗ để xây dựng lại thành phố và đào những con hào mới của thành phố; các gia đình quý tộc có những ngôi nhà phố được xây dựng ở thủ đô mới của công quốc; thành phố được mở rộng theo hình bàn cờ hình học theo ý tưởng thời Phục hưng của kiến trúc sư người Ý Domenico dell'Allio; quảng trường trung tâm thành phố mới Neuer Platz được xây dựng và những công sự mới tốn nửa thế kỷ xây dựng đã biến Klagenfurt trở thành pháo đài hùng mạnh nhất ở phía bắc dãy Alps.
Vào năm 1809, quân đội Pháp (dưới thời Napoléon) trước khi rời đi đã phá hủy các bức tường thành, đổi lấy một số tiền lớn do người dân thu thập được, chỉ có một cổng phía đông (đã được kéo xuống để mở đường cho giao thông vài thập kỷ sau đó) và cổng nhỏ trải dài ở phía tây mà bây giờ là tất cả những gì còn lại của các công sự vĩ đại một thời. Năm 1863, kết nối đường sắt đến Sankt Veit an der Glan và việc xây dựng tuyến đường sắt Vienna-Trieste đã thúc đẩy nền kinh tế của thành phố, mang đến cho thành phố một nhà ga trung tâm hùng vĩ (bị phá hủy trong Thế chiến thứ hai) và củng cố vai trò của Klagenfurt là trung tâm của vùng.
Trong thế kỷ 19, thành phố đã phát triển thành một trung tâm văn hóa quan trọng của người Slovene ở Kärnten. Nhiều nhân vật quan trọng trong cộng đồng người Slovene đã sống, học tập hoặc làm việc ở Klagenfurt, nổi bật trong số đó có Anton Martin Slomšek, người sau này trở thành giám mục đầu tiên ở Maribor và được phong chân phước vào năm 1999, các nhà ngữ văn Jurij Japelj và Anton Janežič, chính trị gia Andrej Einspieler và nhà hoạt động Matija Majar. Nhà thơ dân tộc người Slovene France Prešeren cũng đã dành một thời gian ngắn trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình ở đó. Vào ngày 27 tháng 7 năm 1851, theo ý của giám mục Slomšek, giáo viên Anton Janežič và cha sở Andrej Einspieler, nhà xuất bản Hội Mohorjeva được thành lập tại Klagenfurt[18] và vào năm 1919, hội này chuyển đến Prevalje và sau đó đến Celje vào năm 1927 nhưng được tái thành lập ở Klagenfurt năm 1947. Một số tờ báo tiếng Slovene cũng đã được xuất bản tại thành phố, trong số đó có tờ Slovenski glasnik. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, ảnh hưởng văn hóa và chính trị của người Slovene ở Klagenfurt đã giảm mạnh và vào cuối Thế chiến thứ nhất, thành phố này đã thể hiện đặc trưng của người Đức thuộc Áo.
Tuy nhiên, vào năm 1919, thành phố bị Quân đội của Vương quốc của người Serb, người Croatia và người Slovene (Vương quốc Nam Tư) chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền. Năm 1920, lực lượng chiếm đóng Nam Tư rút khỏi trung tâm thị trấn nhưng vẫn ở các vùng ngoại ô phía nam như Viktring và Ebenthal. Cuối cùng, họ đã rút lui sau cuộc trưng cầu dân ý Kärnten vào tháng 10 năm 1920, khi đa số cử tri ở Khu vực A dùng đa ngôn ngữ quyết định Kärnten vẫn là một phần của Áo.
Năm 1938, dân số Klagenfurt tăng đột ngột hơn 50% do hợp nhất với thị trấn St. Ruprecht và các thành phố tự trị St. Peter, Annabichl và St. Martin. Trong Thế chiến thứ hai, thành phố đã bị đánh bom 41 lần. Các vụ đánh bom đã giết chết 612 người, phá hủy hoàn toàn 443 tòa nhà và làm hư hại 1.132 tòa nhà khác. Một khối lượng 110.000 mét khối (3.884.613 ft khối) của đống đổ nát đã phải được dọn đi trước khi người dân có thể bắt đầu xây dựng lại thành phố.
Để tránh bị tàn phá thêm và đổ máu lớn, vào ngày 3 tháng 5 năm 1945, Tướng Löhr của Tập đoàn quân E (Heeresgruppe E) đồng ý tuyên bố Klagenfurt là một "thành phố mở" "trong trường hợp các lực lượng Anh-Mỹ tấn công thành phố", một tuyên bố rằng được phát sóng nhiều lần và hai ngày sau đó cũng được xuất bản trên Kärntner Nachrichten.[19]
Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, 9:30 sáng, Tập đoàn quân số 8 Lục quân Anh dưới sự chỉ huy của Tướng McCreery tiến vào Klagenfurt và được gặp chính quyền nhà nước và thành phố dân chủ mới tại Stauderhaus. Tất cả các vị trí chiến lược và các công trình quan trọng ngay lập tức bị chiếm giữ, Thiếu tướng Horatius Murray được đưa đến gặp Tướng Noeldechen để chính thức tiep nhận sự đầu hàng của Sư đoàn 438 Đức. Ba giờ sau, các nhóm lực lượng du kích đã đến trên một xe lửa chiếm giữ được ở thung lũng Rosental một ngày trước đó, cùng lúc với quân đoàn IV chính quy Nam Tư.[20] Cả hai bên đều băng qua các đường phố của thành phố, nơi có hàng chục nghìn người tị nạn Volksdeutsche và hàng loạt binh lính thuộc mọi quốc tịch đã chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đức và hiện đang chạy trốn khỏi người Nga. Các lực lượng du kích và quân chính quy Nam Tư đều tuyên bố chủ quyền với thành phố và vùng đất Nam Kärnten xung quanh, thành lập Komanda sta za Koroška, được đặt tên là "Bộ chỉ huy Quân khu Kärnten" dưới quyền Thiếu tá Egon Remec[21]. Neuer Platz - được đổi tên thành Adolf Hitler Platz vào năm 1938 - những chiếc xe bọc thép của Anh[22] được cho là đã đối mặt với xe bọc thép đồng minh của Nam Tư với thái độ thù địch, đó là một cảnh tượng gây tò mò cho những công dân được giải phóng nhưng đây có lẽ là một trong những truyền thuyết thời hiện đại.
Từ đầu năm 1945, khi triển vọng chiến tranh kết thúc khá rõ ràng, nhiều cuộc đàm phán giữa các đại diện của các tổ chức dân chủ trước năm 1934 đã diễn ra, sau đó mở rộng đến các sĩ quan cấp cao của Wehrmacht và các quan chức chính quyền. Ngay cả đại diện của du kích ở các ngọn đồi phía nam Klagenfurt cũng đã được gặp những người được cho là của một lực lượng SS mạnh ở Klagenfurt để thỏa thuận việc không cố gắng chiếm thành phố bằng vũ lực[23] nhưng vẫn giữ nguyên tuyên bố chính thức rằng vùng đông nam Kärnten là thuộc sở hữu của Nam Tư.[24]
Vào ngày 7 tháng 5 năm 1945, một ủy ban được triệu tập tại tòa nhà Landhaus cổ của chính quyền Gau để thành lập chính phủ Nhà nước Lâm thời và một trong nhiều quyết định được đưa ra là tuyên ngôn của "Nhân dân Kärnten". Tuyên bố này bao gồm báo cáo về việc từ chức của Gauleiter và Reichsstatthalter, Friedrich Rainer, việc chuyển giao quyền lực cho chính quyền mới và lời kêu gọi người dân cờ Áo hay Kärnten. Tuyên ngôn đã được in trên Kärntner Zeitung ngày 8 tháng 5. Vào ngày hôm sau, quân đội Nam Tư yêu cầu thị trưởng mới của Klagenfurt phải hạ cờ Áo khỏi tòa thị chính và treo cờ Nam Tư thay thế, Cảnh sát thị trấn người Anh Cptn. Watson ngay lập tức cấm việc này nhưng cũng ra lệnh hạ lá cờ Áo.[25] Cùng ngày, một đội quân du kích mang theo súng máy, một phái viên Nam Tư đã xuất hiện tại tòa nhà Landesregierung, yêu cầu Quyền Thống đốc bang Piesch hủy bỏ lệnh hạ cờ Nam Tư nhưng đã bị phớt lờ.
Vài ngày trôi qua trước đó, dưới áp lực của Anh với sự hậu thuẫn ngoại giao của Hoa Kỳ, quân đội Nam Tư đã rút khỏi thành phố[26] trước khi thành lập một chính quyền dân sự song song Kärnten-Slovene (Hội đồng quốc gia Kärnten) do Franc Petek chủ trì. Tuy nhiên, được sự bảo vệ của binh lính Anh, các thành viên của Chính phủ Quốc gia Lâm thời đã lên kế hoạch đưa ra một chương trình toàn diện về các triển vọng chính trị, xã hội và kinh tế mới tại vùng đất này để phục vụ sự tiếp quản của quân đội Anh. Hỗ trợ tài chính và bồi thường tài sản nhanh chóng cho các nạn nhân của chế độ Quốc xã là cần thiết. Điều này đặt ra một vấn đề vì một trong những hành động đầu tiên của người Anh là tịch thu tất cả tài sản của Đảng Quốc xã cũng như đóng băng tài khoản ngân hàng và phong tỏa các khoản chuyển tiền của họ. Phải mất vài tháng trước khi thông tin liên lạc cơ bản và giao thông công cộng, dịch vụ thư tín và cung cấp nhu yếu phẩm hoạt động trở lại ở một mức độ nào đó. Trong những năm tiếp theo những ngày hỗn loạn này, một bộ phận lớn của Tập đoàn quân số 8 của Anh được tái thành lập thành Lục quân Anh ở Áo (BTA) vào tháng 7 năm 1945, có trụ sở chính tại Klagenfurt - Kärnten, cùng với bang láng giềng Styria, được thành lập một phần của khu vực chiếm đóng của Anh ở nước Áo giải phóng. Khu vực này vẫn được giữ nguyên cho đến ngày 26 tháng 10 năm 1955.
Năm 1961, Klagenfurt trở thành thành phố đầu tiên ở Áo có khu vực dành riêng cho người đi bộ. Ý tưởng về sự kết nghĩa hữu nghị của các thành phố ở các quốc gia khác bắt đầu từ mối quan hệ đối tác thành phố đầu tiên giữa Klagenfurt và Wiesbaden, Đức vào đầu năm 1930. Điều này được tiếp nối bởi nhiều quan hệ đối tác thành phố, kết quả là vào năm 1968, Klagenfurt đã được vinh danh với danh hiệu “Thành phố Châu Âu của năm”. Klagenfurt cũng đã được trao tặng Bằng khen Europa Nostra danh giá (một giải thưởng cho việc khôi phục và tái phát triển trung tâm cổ kính của nó) tổng cộng ba lần, đây là một kỷ lục đối với một thành phố châu Âu.
Năm 1973, Klagenfurt sáp nhập thêm bốn thành phố tự trị liền kề: Viktring với tu viện dòng Xitô lớn; Wölfnitz; Hörtendorf; và St. Peter am Bichl. Việc bổ sung các thành phố tự trị này đã làm tăng dân số của Klagenfurt lên khoảng 90.000 người.
Tính đến tháng 1 năm 2020, có 101.403 người có nơi cư trú chính là Klagenfurt.[27]
Năm | Số dân | ±% |
---|---|---|
1910 | 45.161 | — |
1923 | 43.536 | −3.6% |
1934 | 53.000 | +21.7% |
1939 | 61.286 | +15.6% |
1951 | 68.187 | +11.3% |
1961 | 75.684 | +11.0% |
1971 | 82.840 | +9.5% |
1981 | 87.321 | +5.4% |
1991 | 89.415 | +2.4% |
2001 | 90.141 | +0.8% |
2011 | 94.483 | +4.8% |
2018 | 100.316 | +6.2% |
Nhóm cư dân nước ngoài lớn nhất[28] | |
Quốc tịch | Dân số (2018) |
---|---|
Bosna và Hercegovina | 2,465 |
Đức | 1,977 |
Croatia | 1,695 |
Slovenia | 1,342 |
Romania | 832 |
Ý | 650 |
Afghanistan | 626 |
Vào năm 2019, có khoảng 20.000 người sinh ra ở nước ngoài sống ở Klagenfurt, tương ứng với khoảng 20% dân số của thành phố.
Phố Cổ với trung tâm Alter Platz (Quảng trường Cổ) và các tòa nhà thời Phục hưng với những thềm ba hình vòng cung duyên dáng là một điểm thu hút lớn.
Các địa danh nổi tiếng còn có:
Klagenfurt là trung tâm kinh tế của Kärnten, với 20% các công ty của bang đóng ở đây. Thời điểm tháng 5 năm 2001 có 63.618 lao động ở 6.184 công ty trong thành phố này, 33 công ty có hơn 200 nhân viên. Các ngành kinh tế phổ biến là công nghiệp nhẹ, điện tử và du lịch. Ngoài ra còn có một số văn phòng in ấn.
Sân bay Klagenfurt là sân bay quốc tế chính có kết nối với một số thành phố lớn của Châu Âu và các khu nghỉ mát ở nước ngoài.
Nhà ga trung tâm Klagenfurt (Đức: Hauptbahnhof) nằm ở phía nam trung tâm thành phố.
Thành phố nằm ở giao điểm của đường cao tốc A2 và S37. A2 autobahn chạy từ Vienna qua Graz và Klagenfurt đến Villach và xa hơn đến biên giới giáp Ý. Xa lộ S37 chạy từ Vienna qua Bruck an der Mur và Sankt Veit an der Glan đến Klagenfurt. Đường cao tốc B91 Đèo Loibl đi Ljubljana, thủ đô Slovenia, cách Klagenfurt chỉ 88 km (55 mi).
Lưu lượng giao thông ở Klagenfurt cao (mức độ cơ giới hóa: 572 xe/1000 dân vào năm 2007).[29] Vào những năm 1960, với việc đường xe điện (xe điện) cuối cùng bị phá bỏ, Klagenfurt trở thành một thành phố thân thiện với ô tô với nhiều con đường rộng rãi. Một đường cao tốc thậm chí đã được lên kế hoạch đi qua thành phố một phần dưới lòng đất nhưng ngày nay đã đi ngang qua thành phố về phía bắc. Vấn đề bốn tuyến đường sắt từ Bắc, Tây, Nam và Đông gặp nhau tại ga trung tâm phía Nam của trung tâm thành phố và làm tắc nghẽn giao thông thành phố đã được giải quyết nhờ một số hầm chui trên các tuyến giao thông chính. Tuy nhiên, mặc dù có 28 tuyến xe buýt nhưng hiện nay tình trạng tắc đường vẫn thường xuyên xảy ra ở hầu hết các thành phố có quy mô tương tự. Ý tưởng về một hệ thống giao thông nhanh chóng sử dụng đường ray xe lửa hiện có, đường sắt cáp treo đến sân vận động bóng đá hoặc dịch vụ thuyền máy thông thường trên kênh đào Lend từ trung tâm thành phố đến hồ đã không thành hiện thực. Nhưng đối với những người ưa thích du lịch nhàn nhã, có một dịch vụ thuyền máy và tàu hơi nước thường xuyên trên hồ nối các khu nghỉ mát ở Wörthersee. Dù những mùa đông khắc nghiệt không còn diễn ra thường xuyên nữa, bạn vẫn có thể băng nhanh qua hồ đóng băng trên đôi giày trượt của mình.
Có một nhà hát nhân dân kiêm nhà hát opera với các công ty chuyên nghiệp, một dàn nhạc giao hưởng chuyên nghiệp, một nhạc viện và phòng hòa nhạc tiểu bang. Có những hiệp hội âm nhạc như Musikverein (thành lập năm 1826) hoặc Mozartgemeinde, một công ty sân khấu thể nghiệm tư nhân, Bảo tàng Nhà nước, một bảo tàng nghệ thuật hiện đại và bảo tàng Giáo phận về nghệ thuật tôn giáo; Nhà nghệ sĩ, hai phòng trưng bày thành phố và một số phòng trưng bày tư nhân, một cung thiên văn ở Europa-Park, các tổ chức văn học như nhà Robert Musil và một cuộc thi văn học Đức có uy tín trao giải Giải Ingeborg Bachmann.
Klagenfurt là nhà của một số nhà xuất bản nhỏ nhưng rất tuyệt vời và một số tờ báo hoặc ấn bản khu vực cũng được xuất bản ở đây bao gồm các nhật báo như "Kärntner Krone", "Kärntner Tageszeitung" , "Kleine Zeitung".
Klagenfurt là một điểm nghỉ mát nổi tiếng với những ngọn núi ở cả phía nam và phía bắc, nhiều công viên và một loạt 23 ngôi nhà và lâu đài ở vùng ngoại ô. Vào mùa hè, thành phố là nơi tổ chức lễ hội Altstadtzauber (Phép thuật của Thành Cổ).
Cũng tọa lạc ở đây là Đại học Klagenfurt, một khu đại học của Fachhochschule Kärnten, Đại học Khoa học Ứng dụng Kärnten, một trường cao đẳng giáo dục đào tạo giáo viên tiểu học và trung học và giáo dục sau đại học giáo viên cũng như một trường cao đẳng giáo dục phổ thông (VHS) và hai cơ sở đào tạo nghề và dạy nghề (WIFI và BFI). Trong số các cơ sở giáo dục khác của Áo, có trường trung học và một trường trung học thương mại dạy bằng tiếng Slovene (thành lập năm 1957). Một số hiệp hội văn hóa và chính trị của người Slovene Kärnten cũng có trụ sở tại thành phố như Hội Mohorjeva, nhà xuất bản lâu đời nhất của người Slovene được thành lập tại Klagenfurt vào năm 1851.[30]
Một số trường trung học:
và các trường trung học phổ thông dạy chương trình giáo dục phổ thông kiêm đào tạo nghề:
Nhà vô địch-kỷ lục gia khúc côn cầu trên băng Áo EC KAC là một trong những câu lạc bộ thể thao nổi tiếng nhất ở Áo. Câu lạc bộ "Eishockey Club Klagenfurter Athletiksport Club" (EC KAC) đã 30 lần vô địch Áo và người hâm mộ của họ đến từ khắp Kärnten. Câu lạc bộ bóng đá Premier League SK Austria Kärnten có trụ sở tại Klagenfurt. Klagenfurt đăng cai Khai mạc/Bế mạc Cuộc thi Ironman Áo gồm ba môn: bơi 3,8 km (2,4 dặm), đạp xe 180 km (112 dặm) và chạy bộ 42 km (26 dặm), một phần của loạt giải thể thao Ironman WTC, với đỉnh cao là Giải vô địch thế giới Hawaii.[31]
Giải vô địch chèo thuyền thế giới (châu Âu) được tổ chức tại Wörthersee vào năm 1969.
Một trong những giải Grand Slam Bóng chuyền bãi biển của FIVB diễn ra tại Klagenfurt vào tháng 7 hàng năm và hầu như luôn là một trong những lễ hội lớn nhất trong năm của Áo. Bóng chuyền bãi biển phổ biến ở Áo mặc dù đất nước này không giáp biển. Các tuyển thủ Áo như Clemens Doppler, Florian Gosch và Alexander Horst, những ông trùm nhiều năm ở châu Âu đều chơi hàng năm tại giải này. Các nhà vô địch năm 2009 của giải đấu này là đội đoạt huy chương vàng Thế vận hội Mùa hè 2008 đến từ Mỹ, Phil Dalhausser và Todd Rogers.[32]
Klagenfurt cũng đã tổ chức ba trận đấu tại Giải vô địch UEFA Euro 2008 tại Hypo-Arena mới được xây dựng gần đây. Klagenfurt cũng là ứng cử viên cho Thế vận hội Mùa đông 2006 và là sân nhà của đội bóng bầu dục Mỹ, Những chú sư tử đen Kärnten, đang thi đấu tại Giải hạng Nhất của Liên đoàn Bóng bầu dục Áo. Black Lions[33] thu hút người hâm mộ từ khắp Kärnten, chơi các trận sân nhà ở cả Klagenfurt và Villach.
Các thành phố kết nghĩa với Klagenfurt gồm:
edit | Các thành phố và huyện (Bezirke) của Kärnten | |||
---|---|---|---|---|
|