Innsbruck | |
---|---|
— Thành phố pháp định — | |
Từ trên xuống, trái sang phải: Bürgerstraße, Conradstraße, quang cảnh của Innsbruck, St. Anne's Column ở Maria-Theresien-Straße, Stift Wilten, Lâu đài Ambras, Altes Landhaus | |
Vị trí trong quận Statutarstadt | |
Vị trí bên trong Áo | |
Country | Áo |
Bang | Tirol |
Huyện | Thành phố pháp định |
Đặt tên theo | sông Inn |
Chính quyền | |
• Thị trưởng | Georg Willi |
Diện tích[1] | |
• Thành phố pháp định | 104,91 km2 (4,051 mi2) |
Độ cao | 574 m (1,883 ft) |
Dân số (2018-01-01)[2] | |
• Thành phố pháp định | 132.493 |
• Mật độ | 13/km2 (33/mi2) |
• Vùng đô thị | 228,583 |
Múi giờ | UTC+1, UTC+2 |
• Mùa hè (DST) | CEST (UTC+2) |
Mã bưu chính | 6010-6080 |
Mã quay số | 0512 |
Thành phố kết nghĩa | Tbilisi |
Website | www.innsbruck.at |
Innsbruck (tiếng Đức: [ˈɪnsbʁʊk], phát âm địa phương: [ˈɪnʃprʊk]) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal (sông Sill), nơi có lối đi đến đèo Brenner 30 km (18,6 dặm) về phía nam. Nó nằm giữa đường từ München (Đức) đi Verona (Ý). Dân số vào năm 2018 là 132.493 người.
Trong thung lũng rộng lớn giữa những ngọn núi cao của Chuỗi phía Bắc trên dãy núi Karwendel Alps (Hafelekarspitze, 2.334 mét hay 7.657 foot) về phía bắc, Patscherkofel (2.246 m hay 7.369 ft) và Serles (2.718 m hay 8.917 ft) về phía nam, Innsbruck là trung tâm thể thao mùa đông nổi tiếng quốc tế; nó đã tổ chức Thế vận hội Mùa đông 1964 và 1976 cũng như Thế vận hội Mùa đông dành cho người khuyến tật 1984 và 1988. Nó cũng là nơi tổ chức Thế vận hội Trẻ đầu tiên vào năm 2012. Từ bruck ở đây bắt nguồn từ Brücke trong tiếng Đức nghĩa là "cây cầu", Innsbruck có nghĩa là "cầu bắc qua sông Inn".[3]
Những dấu vết sớm nhất cho thấy đây là nơi có người sinh sống là vào đầu thời kỳ đồ đá. Những địa danh thời La Mã cổ đại còn tồn tại cho thấy khu vực này đã có dân cư liên tục. Vào thế kỷ thứ 4, người La Mã đã thành lập đồn đóng quân Veldidena (tên còn tồn tại ở quận Wilten ngày nay) tại Oenipons (Innsbruck) để bảo vệ tuyến đường thương mại quan trọng Verona-Brenner-Augsburg ở tỉnh Raetia của họ.
Innsbruck bắt nguồn từ cái tên Oeni Pontum hoặc Oeni Pons trong tiếng Latinh có nghĩa là cây cầu (pons) bắc qua sông Inn (Oenus), là một điểm giao nhau quan trọng qua sông Inn. Bá tước Andechs sở hữu thị trấn vào năm 1180. Năm 1248, thị trấn được chuyển vào tay Bá tước Tirol.[4] Các huy hiệu của thành phố cho thấy toàn cảnh nhìn từ trên xuống của cây cầu Inn, một thiết kế được sử dụng từ năm 1267. Tuyến đường qua đèo Brenner khi đó là tuyến đường giao thông và liên lạc chính giữa phía bắc và phía nam của châu Âu và là tuyến đường dễ dàng nhất qua dãy Alps. Nó là một phần của Via Imperii, một con đường đế quốc thời trung cổ dưới sự bảo vệ đặc biệt của nhà vua. Doanh thu được tạo ra từ việc làm trạm trung chuyển trên tuyến đường này đã giúp thành phố phát triển mạnh mẽ.
Innsbruck trở thành thủ phủ của Tirol vào năm 1429 và vào thế kỷ 15, thành phố này trở thành trung tâm chính trị và văn hóa của châu Âu khi Hoàng đế Maximilian I cũng cư trú tại Innsbruck vào những năm 1490. Thành phố được hưởng lợi từ sự hiện diện của hoàng đế, ví dụ như ở Hofkirche. Tại đây, một đài tưởng niệm tang lễ cho Maximilian đã được lên kế hoạch và dựng lên một phần bởi những người kế vị của ông. Quần thể với tượng đài và các bức tượng đồng của tổ tiên có thật và thần thoại của hoàng đế nhà Habsburg là một trong những di tích nghệ thuật chính của Innsbruck. Dịch vụ bưu chính thông thường giữa Innsbruck và Mechelen được thành lập vào năm 1490 bởi Bưu chính Thurn-und-Taxis.
Năm 1564, Ferdinand II, Đại Công tước Áo nhận quyền cai trị đối với Tirol và các lãnh thổ khác của Áo được quản lý từ Innsbruck cho đến thế kỷ 18. Ông đã cho xây dựng Schloss Ambras và trưng bày ở đó các bộ sưu tập thời Phục hưng độc đáo của ông mà ngày nay là một phần của Bảo tàng Kunsthistorisches ở Vienna. Cho đến năm 1665, triều đại nhà Habsburg cai trị ở Innsbruck với một triều đình độc lập. Vào những năm 1620, nhà hát opera đầu tiên ở phía bắc dãy Alps được dựng lên ở Innsbruck (Dogana).
Năm 1669, trường đại học được thành lập. Cũng như một sự đền bù cho triều đình khi Hoàng đế Leopold I một lần nữa trị vì từ Vienna và tổ tiên ở Tirol của triều đại nhà Habsburg đã kết thúc vào năm 1665.
Trong Chiến tranh Napoléon, Tirol được nhượng cho Bayern, đồng minh của Pháp. Andreas Hofer đã lãnh đạo một đội quân nông dân Tirol giành chiến thắng trong Trận Bergisel chống lại lực lượng kết hợp giữa Bayern và Pháp và sau đó biến Innsbruck trở thành trung tâm hành chính của mình. Quân đội liên hợp sau đó đã áp đảo quân đội dân quân Tirol và cho đến năm 1814, Innsbruck là một phần của Bayern. Sau Đại hội Vienna, quyền cai trị của Áo được khôi phục. Cho đến năm 1918, thị trấn (một trong 4 thị trấn tự trị ở Tirol) là một phần của chế độ quân chủ Áo (phần thuộc Áo sau thỏa hiệp năm 1867), người đứng đầu quận cùng tên, một trong 21 Bezirkshauptmannscha thường thuộc tỉnh Tirol.[5]
Anh hùng người Tirol Andreas Hofer bị hành quyết ở Mantua; hài cốt của ông được đưa về Innsbruck vào năm 1823 và được an táng tại nhà thờ dòng Francisco.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, hành động được ghi nhận duy nhất diễn ra ở Innsbruck là gần kết thúc chiến tranh. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1918, các máy bay của quân Đồng minh bay khỏi Ý đã không kích Innsbruck, gây ra thương vong cho quân đội Áo ở đó. Không có thiệt hại nào cho thị trấn được ghi nhận.[6] Vào tháng 11 năm 1918, Innsbruck và toàn bộ Tirol bị chiếm đóng bởi 20 đến 22 nghìn binh sĩ của Quân đoàn III thuộc Đệ nhất Quân đoàn Ý.[7]
Năm 1929, Giải vô địch cờ vua Áo chính thức đầu tiên được tổ chức tại Innsbruck.
Năm 1938, Áo bị Đức Quốc xã thôn tính với Anschluss. Từ năm 1943 đến tháng 4 năm 1945, Innsbruck trải qua 22 cuộc không kích và bị thiệt hại nặng nề.
Năm 1996, Liên minh Châu Âu đã chấp thuận sự hợp nhất sâu hơn nữa về văn hóa và kinh tế giữa tỉnh Tirol của Áo với các tỉnh tự trị Nam Tirol và Trentino của Ý bằng cách công nhận việc thành lập Euroregion Tirol-Nam Tirol-Trentino.
Innsbruck có khí hậu lục địa ẩm (Köppen Dfb) sử dụng đẳng nhiệt 0 °C (32 °F) hoặc khí hậu đại dương (Cfb) sử dụng đường đẳng nhiệt −3 °C (27 °F) ban đầu[8] vì nó có chênh lệch nhiệt độ hàng năm lớn hơn phần lớn Trung Âu do vị trí của nó ở trung tâm Lục địa và bao quanh bởi đồi núi. Mùa đông thường rất lạnh (lạnh hơn so với hầu hết các thành phố lớn ở Châu Âu) và có tuyết mặc dù gió foehn đôi khi mang đến băng giá rõ rệt.
Mùa xuân rất ngắn; ban ngày trời ấm, thường trên 15 °C (59 °F) nhưng ban đêm vẫn mát mẻ, thậm chí có lúc đóng băng.
Mùa hè rất thất thường và không thể đoán trước. Có những ngày trời mát 17 °C (63 °F) và có mưa hoặc nắng và cực kỳ nóng, đôi khi lên tới 34 °C (93 °F). Vào mùa hè, do khí hậu chịu ảnh hưởng của núi cao, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm thường rất cao vì ban đêm thường vẫn mát mẻ, trung bình là 12 °C (54 °F) nhưng đôi khi giảm xuống tới 6 °C (43 °F).
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 9 °C (48 °F).
Dữ liệu khí hậu của Đại học Innsbruck (1981–2010, 1777 – nay) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 19.8 (67.6) |
20.6 (69.1) |
24.8 (76.6) |
28.7 (83.7) |
33.7 (92.7) |
37.3 (99.1) |
37.4 (99.3) |
37.4 (99.3) |
31.7 (89.1) |
26.0 (78.8) |
23.0 (73.4) |
17.9 (64.2) |
37.4 (99.3) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 3.6 (38.5) |
6.4 (43.5) |
11.8 (53.2) |
16.3 (61.3) |
21.4 (70.5) |
23.8 (74.8) |
26.0 (78.8) |
25.1 (77.2) |
20.8 (69.4) |
16.0 (60.8) |
8.6 (47.5) |
3.8 (38.8) |
15.3 (59.5) |
Trung bình ngày °C (°F) | −1.0 (30.2) |
0.8 (33.4) |
5.4 (41.7) |
9.6 (49.3) |
14.6 (58.3) |
17.2 (63.0) |
19.2 (66.6) |
18.4 (65.1) |
14.4 (57.9) |
9.9 (49.8) |
3.9 (39.0) |
−0.1 (31.8) |
9.4 (48.9) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −4.0 (24.8) |
−2.8 (27.0) |
1.0 (33.8) |
4.7 (40.5) |
9.1 (48.4) |
12.0 (53.6) |
13.9 (57.0) |
13.6 (56.5) |
10.2 (50.4) |
6.1 (43.0) |
1.0 (33.8) |
−2.7 (27.1) |
5.2 (41.4) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −26.6 (−15.9) |
−26.9 (−16.4) |
−16.9 (1.6) |
−7.0 (19.4) |
−2.4 (27.7) |
0.6 (33.1) |
2.0 (35.6) |
3.3 (37.9) |
−1.0 (30.2) |
−9.0 (15.8) |
−15.2 (4.6) |
−31.3 (−24.3) |
−31.3 (−24.3) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 42 (1.7) |
41 (1.6) |
57 (2.2) |
58 (2.3) |
84 (3.3) |
115 (4.5) |
136 (5.4) |
130 (5.1) |
80 (3.1) |
59 (2.3) |
60 (2.4) |
51 (2.0) |
911 (35.9) |
Lượng tuyết rơi trung bình cm (inches) | 25 (9.8) |
28 (11) |
12 (4.7) |
3 (1.2) |
0 (0) |
0 (0) |
0 (0) |
0 (0) |
0 (0) |
0 (0) |
11 (4.3) |
21 (8.3) |
99 (39) |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) (at 14:00) | 60.8 | 52.9 | 46.1 | 43.1 | 43.7 | 46.6 | 46.8 | 49.7 | 50.6 | 52.3 | 60.8 | 60.8 | 51.7 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 100 | 123 | 165 | 183 | 206 | 198 | 231 | 212 | 183 | 163 | 101 | 83 | 1.949 |
Phần trăm nắng có thể | 50.3 | 50.4 | 49.9 | 48.1 | 49.2 | 45.8 | 53.8 | 52.7 | 53.8 | 55.9 | 46.7 | 44.6 | 50.1 |
Nguồn 1: Viện Khí tượng Địa động lực Trung ương[9][10][11][12][13] | |||||||||||||
Nguồn 2: Meteo Climat (record highs and lows)[14] |
Dữ liệu khí hậu của Innsbruck-Flugplatz (LOWI) 1971–2000 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 20.2 (68.4) |
18.6 (65.5) |
23.9 (75.0) |
26.4 (79.5) |
32.2 (90.0) |
33.6 (92.5) |
37.7 (99.9) |
35.0 (95.0) |
32.1 (89.8) |
26.0 (78.8) |
21.2 (70.2) |
17.1 (62.8) |
37.7 (99.9) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 3.5 (38.3) |
6.3 (43.3) |
11.3 (52.3) |
14.8 (58.6) |
20.3 (68.5) |
22.6 (72.7) |
24.7 (76.5) |
24.4 (75.9) |
20.8 (69.4) |
15.8 (60.4) |
8.2 (46.8) |
3.7 (38.7) |
14.7 (58.5) |
Trung bình ngày °C (°F) | −1.7 (28.9) |
0.4 (32.7) |
4.8 (40.6) |
8.4 (47.1) |
13.4 (56.1) |
16.1 (61.0) |
18.1 (64.6) |
17.7 (63.9) |
14.0 (57.2) |
9.1 (48.4) |
2.9 (37.2) |
−1.0 (30.2) |
8.5 (47.3) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −5.2 (22.6) |
−3.7 (25.3) |
0.2 (32.4) |
3.4 (38.1) |
7.8 (46.0) |
10.8 (51.4) |
12.8 (55.0) |
12.7 (54.9) |
9.3 (48.7) |
4.8 (40.6) |
−0.5 (31.1) |
−4.2 (24.4) |
4.0 (39.2) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −23.8 (−10.8) |
−17.3 (0.9) |
−16.5 (2.3) |
−4.8 (23.4) |
−2.3 (27.9) |
3.0 (37.4) |
4.4 (39.9) |
1.9 (35.4) |
−0.9 (30.4) |
−6.6 (20.1) |
−17.9 (−0.2) |
−20.1 (−4.2) |
−23.8 (−10.8) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 43.9 (1.73) |
41.4 (1.63) |
55.9 (2.20) |
57.7 (2.27) |
87.1 (3.43) |
110.3 (4.34) |
137.2 (5.40) |
111.3 (4.38) |
78.1 (3.07) |
57.3 (2.26) |
63.2 (2.49) |
53.1 (2.09) |
896.5 (35.30) |
Lượng tuyết rơi trung bình cm (inches) | 25.6 (10.1) |
30.0 (11.8) |
12.5 (4.9) |
3.5 (1.4) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.8 (0.3) |
12.0 (4.7) |
25.9 (10.2) |
110.3 (43.4) |
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 1.0 mm) | 7.4 | 7.3 | 8.8 | 9.7 | 10.7 | 13.2 | 13.9 | 12.6 | 9.2 | 7.8 | 9.0 | 8.6 | 118.2 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) (at 14:00) | 64.0 | 54.2 | 45.2 | 44.2 | 42.6 | 46.7 | 47.5 | 49.0 | 49.2 | 50.9 | 61.2 | 69.5 | 52.0 |
Nguồn: Central Institute for Meteorology and Geodynamics[15] |
Dữ liệu khí hậu của Đại học Innsbruck (1971–2000) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 19.8 (67.6) |
19.1 (66.4) |
24.8 (76.6) |
27.1 (80.8) |
32.3 (90.1) |
34.1 (93.4) |
37.4 (99.3) |
35.5 (95.9) |
31.6 (88.9) |
25.8 (78.4) |
20.9 (69.6) |
16.9 (62.4) |
37.4 (99.3) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 3.7 (38.7) |
6.5 (43.7) |
11.5 (52.7) |
15.2 (59.4) |
20.5 (68.9) |
22.8 (73.0) |
24.9 (76.8) |
24.5 (76.1) |
20.8 (69.4) |
15.7 (60.3) |
8.1 (46.6) |
3.8 (38.8) |
14.8 (58.6) |
Trung bình ngày °C (°F) | −0.9 (30.4) |
0.9 (33.6) |
5.2 (41.4) |
8.7 (47.7) |
13.7 (56.7) |
16.3 (61.3) |
18.3 (64.9) |
17.9 (64.2) |
14.2 (57.6) |
9.4 (48.9) |
3.3 (37.9) |
−0.3 (31.5) |
8.9 (48.0) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −3.9 (25.0) |
−2.6 (27.3) |
1.0 (33.8) |
4.1 (39.4) |
8.5 (47.3) |
11.4 (52.5) |
13.3 (55.9) |
13.2 (55.8) |
9.9 (49.8) |
5.5 (41.9) |
0.4 (32.7) |
−2.9 (26.8) |
4.8 (40.6) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −21.1 (−6.0) |
−14.5 (5.9) |
−15.0 (5.0) |
−4.0 (24.8) |
−2.4 (27.7) |
3.5 (38.3) |
4.4 (39.9) |
4.7 (40.5) |
−0.3 (31.5) |
−5.9 (21.4) |
−14.5 (5.9) |
−17.2 (1.0) |
−21.1 (−6.0) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 42.5 (1.67) |
36.8 (1.45) |
53.8 (2.12) |
58.8 (2.31) |
83.2 (3.28) |
111.8 (4.40) |
134.3 (5.29) |
116.5 (4.59) |
78.1 (3.07) |
56.1 (2.21) |
62.4 (2.46) |
48.8 (1.92) |
883.1 (34.77) |
Lượng tuyết rơi trung bình cm (inches) | 21.8 (8.6) |
28.4 (11.2) |
12.6 (5.0) |
4.1 (1.6) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
0.0 (0.0) |
1.7 (0.7) |
10.8 (4.3) |
15.9 (6.3) |
95.3 (37.5) |
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 1.0 mm) | 7.6 | 6.9 | 8.7 | 9.4 | 10.7 | 13.6 | 13.7 | 12.5 | 9.1 | 7.6 | 8.7 | 8.5 | 117.0 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) (at 14:00) | 61.0 | 53.0 | 45.4 | 43.9 | 43.5 | 47.3 | 47.8 | 49.2 | 50.4 | 51.8 | 60.5 | 66.7 | 51.7 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 94.7 | 121.1 | 154.2 | 168.2 | 193.0 | 186.8 | 215.5 | 214.4 | 180.0 | 159.0 | 102.2 | 82.8 | 1.871,9 |
Phần trăm nắng có thể | 39.1 | 48.8 | 45.3 | 43.3 | 45.9 | 43.8 | 50.1 | 52.6 | 54.6 | 53.3 | 46.5 | 43.8 | 47.4 |
Nguồn: Viện Khí tượng Địa động lực Trung ương[15] |
Innsbruck được chia thành chín quận (khu dân cư địa chính) được hình thành từ các thị trấn hoặc làng mạc độc lập trước đây.[16] Chín quận này lại được chia thành hai mươi phường (huyện địa chính). Tất cả các phường đều nằm trong một quận trừ phường Hungerburg (Thượng Innsbruck) được chia cho hai quận. Để tiện thống kê, Innsbruck được chia thành bốn mươi hai đơn vị thống kê (Statistischer Bezirk) và 178 khối được đánh số (Zählsprengel).[17]
Sau đây là chín quận có dân số tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2011:[18]
Kết quả của cuộc bầu cử địa phương năm 2018 là:
Innsbruck là một địa điểm du lịch rất nổi tiếng, hàng năm tổ chức các sự kiện sau:
Do nằm giữa những ngọn núi cao, Innsbruck là nơi lý tưởng để trượt tuyết, trượt tuyết nhảy xa vào mùa đông và leo núi vào mùa hè. Có một số khu nghỉ mát trượt tuyết xung quanh Innsbruck với Nordkette được phục vụ bằng cáp treo và thêm ghế nâng lên cao hơn. Các khu nghỉ dưỡng trượt tuyết khác gần đó bao gồm Axamer Lizum, Muttereralm, Patscherkofel, Igls, Seefeld, Tulfes và Thung lũng Stubaital. Địa hình băng giá ở đây giúp bạn có thể trượt tuyết ngay cả trong những tháng mùa hè.
Thế vận hội Olympic mùa đông được tổ chức ở Innsbruck hai lần, lần đầu tiên vào năm 1964 và sau đó một lần nữa vào năm 1976 khi các cử tri Colorado từ chối cuộc trưng cầu dân ý về trái phiếu vào năm 1972 để tài trợ cho Thế vận hội Denver, ban đầu được tổ chức vào năm 1970. Thế vận hội mùa đông 1976 là Thế vận hội cuối cùng được tổ chức ở vùng Alps nói tiếng Đức (Áo, Đức hoặc Thụy Sĩ).
Cùng với St. Moritz, Thụy Sĩ và Lake Placid, New York ở Hoa Kỳ, đây là một trong ba địa điểm đã hai lần tổ chức Thế vận hội mùa đông. Nó cũng đã tổ chức Paralympic Mùa đông 1984 và 1988.
Innsbruck đăng cai Thế vận hội Trẻ Mùa đông lần thứ nhất vào năm 2012.[19]
Innsbruck cũng tổ chức một trong 4 cuộc thi trượt tuyết nhảy xa của 4 Hills Tournament hàng năm.
Các sự kiện đáng chú ý khác được tổ chức tại Innsbruck bao gồm Cuộc thi trượt ván Air & Style từ năm 1994 đến 1999 và 2008 và Giải vô địch thế giới khúc côn cầu trên băng vào năm 2005. Cùng với thành phố Seefeld, Innsbruck đã tổ chức Universiade Mùa đông vào năm 2005. Bergiselschanze của Innsbruck là một trong những ngọn đồi của 4 Hills Tournament nổi tiếng.
Innsbruck là sân nhà của câu lạc bộ bóng đá FC Wacker Innsbruck đang chơi ở Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Áo kể từ mùa giải 2019–20. Các đội cũ bao gồm FC Swarovski Tirol và FC Tirol Innsbruck. Sân vận động của FC Wacker Innsbruck - Tivoli Neu là một trong tám sân vận động tổ chức Euro 2008 diễn ra tại Thụy Sĩ và Áo vào tháng 6 năm 2008.
Thành phố cũng đã tổ chức trận chung kết Bóng bầu dục Mỹ, Eurobowl XXII giữa Swarco Raiders Tirol và Raiffeisen Vikings Vienna.
Thành phố đã tổ chức các trận đấu mở màn trong Giải vô địch thế giới IFAF 2011, giải vô địch bóng bầu dục Mỹ quốc tế chính thức.
Năm 2018, Innsbruck tổ chức Giải vô địch thế giới môn Leo núi IFSC 2018 từ ngày 6 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9 và Giải vô địch thế giới chạy đường trường UCI 2018 từ ngày 22 tháng 9 đến ngày 30 tháng 9.[20]
Innsbruck là một phần của vùng phương ngữ Áo-Bayern và cụ thể hơn là tiếng Nam Bayern (Südbairisch).[21] Irina Windhaber, giáo sư ngôn ngữ học tại Đại học Innsbruck đã quan sát thấy xu hướng trong giới trẻ thường chọn các cấu trúc và cách phát âm tiếng Đức chuẩn hơn.[22]
Innsbruck là một trung tâm du lịch lớn với hơn một triệu lượt khách lưu trú qua đêm.
Tại Innsbruck, có 86.186 nhân viên và khoảng 12.038 người sử dụng lao động. 7.598 người làm nghề tự do.[23] Gần 35.000 người đến Innsbruck mỗi ngày từ các cộng đồng xung quanh trong khu vực. Tỷ lệ thất nghiệp trong năm 2012 là 4,2%.[24]
Cơ quan thống kê quốc gia Statistik Áo không cung cấp dữ liệu kinh tế cho riêng thành phố Innsbruck mà ở mức tổng hợp với Quận Innsbruck-Land được tóm tắt là Innsbruck 3 khu vực NUTS. Năm 2013, GDP bình quân đầu người ở Innsbruck 3 khu vực NUTS là 41.400€, cao hơn khoảng 60% so với mức trung bình của EU.[25]
Trụ sở chính của Tiroler Wasserkraft (Tiwag, sản xuất năng lượng), Bank für Tirol und Vorarlberg (dịch vụ tài chính), Tiroler Versicherung (bảo hiểm) và MED-EL (thiết bị y tế) được đặt tại Innsbruck. Các trụ sở chính của Swarovski (thủy tinh), Felder Group (cơ khí) và Swarco (công nghệ giao thông) đều nằm cách thành phố 20 km (12 mi).
Bất động sản nhà ở rất đắt theo tiêu chuẩn quốc gia. Giá trung bình cho mỗi mét vuông ở Innsbruck là 4,430€ (2015), đây là mức giá cao thứ hai tính trên mỗi mét vuông ở các thành phố của Áo chỉ xếp sau Salzburg (4,823€), xếp sau là Vienna (3,980 €).[26]
Innsbruck nằm dọc theo hành lang đường cao tốc A12/A13 (tương ứng là Inn Valley Autobahn và Brenner Autobahn) với các tuyến đường cao tốc đến Verona, Ý và München, Đức. A12 và A13 hội tụ gần Innsbruck, tại điểm A13 kết thúc.
Innsbruck Hauptbahnhof, nhà ga quan trọng nhất của Innsbruck và Tirol, là một trong những nhà ga nhôn nhịp nhất ở Áo. Nó được phục vụ bởi tuyến Thung lũng Hạ Inn tới Đức và miền đông Áo, tuyến Arlberg ở phía tây và tuyến Brenner nối miền bắc Ý với miền nam nước Đức qua đèo Brenner. Kể từ tháng 12 năm 2007, các dịch vụ ngoại ô đã được vận hành với tên gọi Innsbruck S-Bahn.
Sân bay Innsbruck nằm ở ngoại ô Kranebitten phía Tây thành phố. Nó cung cấp dịch vụ đến các sân bay như Frankfurt, London, Amsterdam và Vienna. Nó cũng xử lý các chuyến bay khu vực xung quanh dãy Alps cũng như các chuyến bay theo mùa đến các điểm đến khác. Trong mùa đông, hoạt động tăng lên đáng kể do số lượng người trượt tuyết đến khu vực này cao. Sân bay cách trung tâm Innsbruck khoảng 4 km (2,5 dặm).
Giao thông công cộng địa phương được cung cấp bởi Innsbrucker Verkehrsbetriebe (IVB), một cơ quan nhà nước điều hành mạng lưới các tuyến xe buýt và xe điện. Mạng lưới xe điện khổ mét bao gồm bốn tuyến thành phố, 1, 2, 3, 5 và hai tuyến phục vụ khu vực xung quanh: tuyến 6, Innsbrucker Mittelgebirgsbahn đến Igls và tuyến STB, Stubaitalbahn chạy qua Thung lũng Stubaital đến Fulpmes. Mạng lưới này dự kiến sẽ được mở rộng trong những năm tới để tiếp cận làng Rum lân cận ở phía đông và Völs ở phía tây. Nhiều tuyến xe buýt nội thành và kết nối với các khu vực lân cận. Cho đến năm 2007, mạng lưới xe buýt có hai tuyến nhưng chúng đã bị bỏ dở để chuẩn bị cho kế hoạch mở rộng mạng lưới xe điện.
Vào tháng 12 năm 2007, Hungerburgbahn, một tuyến đường sắt leo núi đến quận Hungerburg đã được mở lại sau hai năm đóng cửa để xây dựng lại trên diện rộng với việc sắp xếp lại một phần và một phần mở rộng mới qua sông Inn và vào trung tâm Innsbruck. Tuyến đường sắt này cũng được trang bị các phương tiện mới. Do thiết kế độc đáo của các nhà ga do kiến trúc sư nổi tiếng Zaha Hadid phác thảo, đường sắt leo núi ngay lập tức phát triển thành một biểu tượng mới của thành phố.[27] Tuyến này được xây dựng lại bởi công ty Leitner của Ý và hiện có thể chở tới 1.200 người mỗi giờ.[28] Nó được điều hành bởi một công ty tư nhân, 'Innsbrucker Nordkettenbahnen'.
Innsbruck có một số trường cao đẳng và đại học tại địa phương.
Innsbruck là nơi có trường trung học (Gymnasium) lâu đời nhất Tây Áo, "Akademisches Gymnasium Innsbruck". Trường được thành lập năm 1562 thuộc Dòng Tên và là tiền thân của trường đại học được thành lập sau đó vào năm 1669.
Innsbruck có một số trường đại học. Nổi tiếng nhất là Đại học Innsbruck (Leopold-Franzens-Universität), Đại học Y khoa Innsbruck và trường đại học khoa học ứng dụng Trung tâm Quản lý MCI Innsbruck.
Trụ sở quốc tế của Làng trẻ em SOS, một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất thế giới, được đặt tại Innsbruck. Tổ chức phi chính phủ hoạt động quốc tế Áo được thành lập tại Innsbruck vào năm 1992 bởi Andreas Maislinger và Andreas Hörtnagl. Văn phòng trung tâm của nó được đặt tại Hutterweg, Innsbruck. Innsbruck có hai trường đại học, Leopold-Franzens-Universität Innsbruck và Đại học Y Innsbruck. Đại học Y khoa Innsbruck có một trong những phòng khám chấn thương trượt tuyết hàng đầu ở Châu Âu. Trụ sở quốc tế của MED-EL, một trong những nhà sản xuất ốc tai điện tử lớn nhất được đặt tại Innsbruck. Bộ mô phỏng bộ đồ vũ trụ Aouda.X đang được phát triển bởi OeWF ở Innsbruck. Ngoài ra, Trung tâm Hỗ trợ Sứ mệnh cho nhiều sứ mệnh tương tự của OeWF Mars được đặt tại thành phố. MSC này đã sử dụng thời gian trì hoãn liên lạc với Trại Weyprecht ở sa mạc gần Erfoud, Maroc cho chuyến thám hiểm MARS2013 vào tháng 2 năm 2013.
Dịch vụ Áo ở nước ngoài là một tổ chức phi chính phủ, cung cấp các vị trí cho một dịch vụ quốc gia khác của Áo tại 85 tổ chức ở 35 quốc gia trên toàn thế giới trong các lĩnh vực Lễ Truy điệu Holocaust, Dịch vụ xã hội và Dịch vụ hòa bình. Nó được thành lập bởi Andreas Maislinger và Andreas Hörtnagl vào năm 1998 và có trụ sở tại Innsbruck.
|work=
(trợ giúp)
edit | Các thành phố và huyện (Bezirke) của bang Tirol | ||
---|---|---|---|
Innsbruck |