Sau Chiến tranh Nga-Ba Tư từ năm 1813 đến 1828, lãnh thổ của Qajar Iran ở Kavkaz đã bị nhượng lại cho Đế quốc Nga.[53][54]Hiệp ước Gulistan năm 1813 và Turkmenchay năm 1828 đã hoàn tất biên giới giữa Nga và Iran. Và sau hơn 80 năm dưới ách thống trị của Đế quốc Nga ở Kavkaz, Cộng hòa Dân chủ Azerbaijan đã được thành lập vào năm 1918, hình thành nên lãnh thổ của Cộng hòa Azerbaijan ngày nay.
Các cư dân cổ đại ở khu vực này nói tiếng Azeri cổ thuộc ngữ chi Iran của ngữ hệ Ấn-Âu.[55] Vào thế kỷ 11 CN, với các cuộc chinh phạt của Seljuq, các bộ lạc Turk Oghuz bắt đầu di chuyển qua cao nguyên Iran tới Kavkaz và Anatolia. Về sau càng nhiều bộ lạc Oghuz và Turkmen tới đây do cuộc xâm lược của Mông Cổ.[56] Những bộ lạc Turkmen lan rộng thành các nhóm nhỏ, một số định cư ở Kavkaz, khiến cư dân địa phương bị Thổ Nhĩ Kỳ. Theo thời gian thì họ cải đạo sang Hồi giáo Shia.[57]
^“Iran”. Ethnologue. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2018. Ethnic population: 16,700,000 (2019)
^Elling, Rasmus Christian (18 tháng 2 năm 2013). Minorities in Iran: Nationalism and Ethnicity after Khomeini. Springer. tr. 28. ISBN978-1-137-04780-9. CIA and Library of Congress estimates range from 16 percent to 24 percent—that is, 12–18 million people if we employ the latest total figure for Iran's population (77.8 million).
^Gheissari, Ali (2 tháng 4 năm 2009). Contemporary Iran: Economy, Society, Politics. Oxford University Press. tr. 300. ISBN978-0-19-988860-3. As of 2003, the ethnic classifications are estimated as: [...] Azeri (24 percent)
^Bani-Shoraka, Helena (1 tháng 7 năm 2009). “Cross-generational bilingual strategies among Azerbaijanis in Tehran”. International Journal of the Sociology of Language. 2009 (198): 106. doi:10.1515/IJSL.2009.029. ISSN1613-3668. S2CID144993160. The latest figures estimate the Azerbaijani population at 24% of Iran's 70 million inhabitants (NVI 2003/2004: 301). This means that there are between 15 and 20 million Azerbaijanis in Iran.
^Moaddel, Mansoor; Karabenick, Stuart A. (4 tháng 6 năm 2013). Religious Fundamentalism in the Middle East: A Cross-National, Inter-Faith, and Inter-Ethnic Analysis. Brill. tr. 101. The Azeris have a mixed heritage of Iranic, Caucasian, and Turkic elements(...) Between 16 to 23 million Azeris live in Iran.
^ abEschment, Beate; von Löwis, Sabine biên tập (18 tháng 8 năm 2022). Post-Soviet Borders: A Kaleidoscope of Shifting Lives and Lands. Taylor & Francis. tr. 31. Irrespective of the large Azerbaijani population in Iran (about 20 million, compared to 7 million in Azerbaijan)(...)
^Dabrowska, Karen; Hann, Geoff (2008), Iraq Then and Now: A Guide to the Country and Its People, Bradt Travel Guides, ISBN 1-84162-243-5
^Phillips, David L. (2006), Losing Iraq: Inside the Postwar Reconstruction Fiasco, Basic Books, ISBN 0-465-05681-4
^“Итоги переписи”. 2010 census. Russian Federation State Statistics Service. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2015.
^“5.01.00.03 Национальный состав населения”(PDF) (bằng tiếng Nga). National Statistical Committee of Kyrgyz Republic. 2011. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2012.
^“Population Census 2009”(PDF). National Statistical Committee of the Republic of Belarus. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
^2006 Australian CensusLưu trữ 2015-01-07 tại Wayback Machine. NB According to the 2006 census, 290 people living in Australia identified themselves as of Azeri ancestry, although the Australian-Azeri community is estimated to be larger.. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
^“Əsas səhifə”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập 11 tháng 10 năm 2015.
^Bani-Shoraka, Helena (2005). “Language Policy and Language Planning: Some Definitions”. Trong Rabo, Annika; Utas, Bo (biên tập). The Role of the State in West Asia. Swedish Research Institute in Istanbul. tr. 144. ISBN91-86884-13-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
^Roy, Olivier (2007). The new Central Asia. I.B. Tauris. tr. 6. ISBN978-1-84511-552-4. The mass of the Oghuz who crossed the Amu Darya towards the west left the Iranian plateaux, which remained Persian, and established themselves more to the west, in Anatolia. Here they divided into Ottomans, who were Sunni and settled, and Turkmens, who were nomads and in part Shiite (or, rather, Alevi). The latter were to keep the name 'Turkmen' for a long time: from the 13th century onwards they 'Turkised' the Iranian populations of Azerbaijan (who spoke west Iranian languages such as Tat, which is still found in residual forms), thus creating a new identity based on Shiism and the use of Turkish. These are the people today known as Azeris.
^Harcave, Sidney. Russia: A History: Sixth Edition. tr. 267.
^Mojtahed-Zadeh, Pirouz. Boundary Politics and International Boundaries of Iran: A Study of the Origin, Evolution, and Implications of the Boundaries of Modern Iran with Its 15 Neighbors in the Middle East by a Number of Renowned Experts in the Field. Universal. tr. 372. ISBN978-1-58112-933-5.
1Không được nhầm lẫn Người Turkmen sống ở Turkmenistan, Afghanistan và Iran với các nhóm thiểu số Turkmen / Turkoman ở Levant (tức Iraq và Syria) vì những người thiểu số sau này hầu hết đều tuân theo di sản và bản sắc Ottoman-Turk. 2 Danh sách này chỉ bao gồm các khu vực định cư truyền thống của người Thổ Nhĩ Kỳ (tức là người Thổ Nhĩ Kỳ vẫn sống trong các lãnh thổ Đế chế Ottoman trước đây).
Lựa chọn được khách sạn ưng ý, vừa túi tiền và thuận tiện di chuyển sẽ giúp chuyến du lịch khám phá thành phố biển Quy Nhơn của bạn trọn vẹn hơn bao giờ hết