Nguyễn Lương Bằng | |
---|---|
Chức vụ | |
Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (trước 1976) Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau 1976) | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 9 năm 1969 – 20 tháng 7 năm 1979 (mất) 9 năm, 300 ngày |
Chủ tịch nước | Tôn Đức Thắng |
Tiền nhiệm | Nhà nước đổi tên |
Nhiệm kỳ | 25 tháng 4 năm 1956 – 11 tháng 10 năm 1965 9 năm, 169 ngày |
Tổng Thanh tra phó | |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Trân |
Kế nhiệm | Nguyễn Thanh Bình |
Nhiệm kỳ | tháng 4 năm 1956 – tháng 12 năm 1976 |
Tiền nhiệm | Hồ Tùng Mậu |
Kế nhiệm | Song Hào |
Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô | |
Nhiệm kỳ | tháng 4 năm 1952 – tháng 4 năm 1956 |
Kế nhiệm | Nguyễn Văn Kỉnh |
Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | tháng 5 năm 1951 – tháng 4 năm 1952 |
Phó Tổng Giám đốc | Lê Viết Lượng |
Tiền nhiệm | đầu tiên |
Kế nhiệm | Lê Viết Lượng |
Trưởng ban Tài chính - kinh tế Trung ương Đảng | |
Nhiệm kỳ | 1948 – 1951 |
Nhiệm kỳ | 25 tháng 8 năm 1943 – 20 tháng 7 năm 1979 (mất) 35 năm, 329 ngày |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Thanh Miện, Hải Dương,Liên Bang Đông Dương | 2 tháng 4, 1904
Mất | 20 tháng 7, 1979 Hà Nội | (75 tuổi)
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Hà Thục Trinh |
Cha | Nguyễn Lương Thiện |
Mẹ | Ngô Thị Tý |
Nguyễn Lương Bằng (1904 – 1979) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách của Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ: Phó Chủ tịch nước Việt Nam (1969 – 1979), Tổng Giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam, đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô cũ (1952 – 1956), Tổng Thanh tra Chính phủ (1956).
Ông sinh ngày 2 tháng 4 năm 1904, tại thôn Đông, xã Đoàn Lâm (nay là Thanh Tùng, Thanh Miện, Hải Dương), trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, ông còn sử dụng bí danh Anh Cả, hoặc Sao Đỏ.
Tháng 12 năm 1925, ông được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Từ đấy, ông và một số thanh niên yêu nước khác theo học lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hướng dẫn.
Tháng 10 năm 1929, tại Hồng Kông, ông được kết nạp vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Tháng 5 năm 1931, ông bị mật thám bắt giải về giam ở bót Catinat Sài Gòn. Ít lâu sau, ông bị đưa xuống tàu biển Claude Chappe chở ra Hải Phòng và đưa vào giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội. Cuối năm 1931, ông lại bị đưa về Hải Dương.
Tháng 6 năm 1932, tòa đề hình Hải Dương xử ông tù chung thân và chuyển về giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội. Cuối năm 1932, ông trốn thoát lên Vĩnh Yên, rồi về Thanh Miện (Hải Dương) hoạt động. Cuối năm 1933, khi đi công tác Bắc Giang, ông lại bị bắt, bị giam ở Hỏa Lò (đầu 1934). Tháng 5 năm 1935 bị đày lên nhà tù Sơn La.
Năm 1943, Đảng bố trí cho ông vượt ngục về làng Vạn Phúc (Hà Đông) gặp Hoàng Văn Thụ để nhận nhiệm vụ, ông được Đảng chỉ định làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác tài chính và công tác binh vận của Đảng; đồng thời được phân công hoạt động trong Mặt trận Việt Minh giữ chức Chủ nhiệm của Tổng bộ.
Chuẩn bị khởi nghĩa, Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Hồ Chí Minh là Chủ tịch; Ban thường trực gồm 5 người, trong đó có Nguyễn Lương Bằng.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông từng giữ chức vụ Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô (1952 – 1956)[1], Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, Tổng Thanh tra Chính phủ (1956). Tháng 9 năm 1969 được bầu làm Phó Chủ tịch nước.
Ông mất ngày 20 tháng 7 năm 1979, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch[2]. Ông là người chỉ giữ tới chức Phó Chủ tịch nước đầu tiên có tang lễ là quốc tang. Quốc tang của ông diễn ra vào ngày 23 tháng 7 năm 1979.
Ông kết hôn với bà Hà Thục Trinh. Hai người có bốn con gái có tên Tường Vân, Việt Liên, Hồng Châu, Thanh Mai.[3]. Vợ ông được xem là người đầu tiên trả lại biệt thự cho nhà nước Việt Nam sau khi ông mất[4].
“ |
|
” |
— Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc việc làm của ông Nguyễn Lương Bằng sau ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công. |
“ |
|
” |
— nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm. |
“ |
|
” |
— Nguyễn Thọ Chân, nguyên UVTƯ Đảng, nguyên Bí thư Thành uỷ Sài gòn-Chợ Lớn[5] |
*Anh Cả Nguyễn Lương Bằng (hồi ký), Nhà xuất bản CTQG, HN, 2005
Để ghi nhận công lao của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng Huân chương Sao Vàng cho ông. Một nhà tưởng niệm cũng được xây dựng tại quê hương ông[6].
Tên ông được đặt cho các phố ở Hà Nội (nối Tôn Đức Thắng với Tây Sơn thuộc quận Đống Đa), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Tân Mỹ và Hoàng Quốc Việt), Đà Nẵng (nối Nguyễn Văn Cừ và Tôn Đức Thắng) và đại lộ chính tại thành phố Hải Dương; một thị trấn thuộc huyện Kim Động (Hưng Yên); Khánh Hoà (nối Lê Duẩn và Hùng Vương, tp Cam Ranh); Tây Ninh (nối Quốc lộ 22 và Nguyễn Văn Linh, thị xã Hòa Thành). Và ông cũng được đặt tên đường ở Thành phố Hải Phòng ở quận Kiến An.
Năm 2002, Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội sản xuất bộ phim dài tập Bình minh đỏ do NSND Trần Phương đạo diễn. Bộ phim kể về thời gian hoạt động cách mạng của Nguyễn Lương Bằng trước năm 1945.[7]
<ref>
không hợp lệ: tên “antg” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
<ref>
không hợp lệ: tên “tp1” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác