Từ định danh pomacentrus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: pôma (πῶμα, "nắp đậy") và kéntron (κέντρον, "gai, ngạnh"), hàm ý đề cập đến hàng răng cưa dọc theo rìa xương nắp mang của loài điển hìnhP. pavo.[3]
Nhìn chung, các loài Pomacentrus có kích thước tương đối nhỏ, với chiều dài cơ thể do được phần lớn nằm trong khoảng từ 6 đến 11 cm.[4]
Nhiều loài Pomacentrus có kiểu màu bắt mắt, thường được đánh bắt để nuôi làm cá cảnh, trong khi một số loài lại có màu sẫm tối (thường là xanh xám, nâuxám đến nâu sẫm). Cá con của hầu hết những loài Pomacentrus đều có điểm chung là một đốm đen lớn viền xanh lam óng ngay sau vây lưng với các sọc, đốm màu xanh óng từ đỉnh đầu kéo dài ngược ra sau lưng. Cá con thường có màu vàng tươi hoặc màu cam sáng.
Tính đến năm 2021, có tất cả 82 loài được công nhận là hợp lệ trong chi này, trở thành chi có số lượng đông nhất trong họ Cá thia, bao gồm các loài sau:[5]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Pomacentrus”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021.
^Tang, Kevin L.; Stiassny, Melanie L. J.; Mayden, Richard L.; DeSalle, Robert (2021). “Systematics of Damselfishes”. Ichthyology & Herpetology. 109 (1): 258–318. doi:10.1643/i2020105. ISSN2766-1512.
^Habib, Kazi Ahsan; Islam, Md Jayedul; Nahar, Najmun; Neogi, Amit Kumer (2020). “Pomacentrus bangladeshius, a new species of damselfish (Perciformes, Pomacentridae) from Saint Martin's Island, Bangladesh”. Zootaxa. 4860 (3): zootaxa.4860.3.6. doi:10.11646/zootaxa.4860.3.6. ISSN1175-5334. PMID33055890.
^Liu, Shang-Yin Vanson; Ho, Hsuan-Ching Hans; Dai, Chang-Feng (2013). “A new species of Pomacentrus (Actinopterygii: Pomacentridae) from Micronesia, with comments on its phylogenetic relationships”. Zoological Studies. 52 (1): 6. doi:10.1186/1810-522X-52-6. ISSN1810-522X.