Cột trái là phần tử đứng trước, hàng đầu là phần tử đứng sau. Bên cạnh đó, và với , .
Trong toán học, hệquaternion mở rộng tiếp số phức. Các số quaternion được lần đầu mô tả bởi nhà toán học người Ireland William Rowan Hamilton trong 1843[1][2] và áp dụng cho cơ học trong không gian ba chiều. Đại số của quaternion thường được ký hiệu bằng H (cho Hamilton), hoặc trong phông chữ bảng đen in đậm Mặc dù phép nhân của quaternion không có tính giao hoán, nó đưa ra định nghĩa của thương của hai vectơ trong không gian ba chiều.[3][4] Quaternion thường được biểu diễn dưới dạng
trong đó các hệ số a, b, c, d đều là các số thực, và 1, i, j, k được gọi là vectơ cơ sở hay phần tử cơ sở.[5]
Theo định lý Frobenius, đại số là một trong duy nhất hai vành chia hữu hạn số chiều có vành con chân chính đẳng cấu với các số thực; cái còn lại là của số phức. Các vành này đồng thời đều là đại số Euclidean Hurwitz, trong đó quaternion là đại số kết hợp lớn nhất và do đó là vành lớn nhất. Mở rộng tiếp các số quaternion sẽ ra các số octonionkhông kết hợp, các số này là đại số chia định chuẩn cuối cùng trên các số thực. Mở rộng thêm lần nữa ra các số sedenion, các số này có ước của không nên không thể lập thành đại số chia định chuẩn.[7]
Hamilton đã biết rằng các số phức có thể được coi là các điểm trong một mặt phẳng, và ông lúc đó đang tìm cách định nghĩa tương tự cho không gian ba chiều. Các điểm trong không gian có thể được biểu diễn bằng tọa độ của chúng, tức một bộ ba số, và trong nhiều năm ông đã biết các để cách để cộng và trừ chúng. Tuy nhiên, cũng trong nhiều năm đó, ông cũng bị khựng lại trong vấn đề nhân và chia chúng. Ông không thể hình dung hay tưởng tượng ra cách nhân hai điểm trong một không gian (chỉ từ ba số). Quả thật, sau này Ferdinand Georg Frobeniusđã chứng minh trong 1877 rằng để đại số chia trên các số thực vừa hữu hạn chiều vừa kết hợp, thì nó không thể ba chiều được, và chỉ có ba đại số chia như thế: (số phức) và (quaternion) với số chiều 1, 2, và 4 tương ứng.
Phát minh quan trọng với các số quaternion cuối cùng cũng đến vào ngày thứ hai, mùng 16 tháng 10 năm 1843 tại Dublin, khi Hamilton đang trên đường tới học viện Hoàng gia Irish để chủ trì tại một cuộc họp hội đồng. Khi ông đang đi trên đường kéo tàu trên kênh Hoàng gia với vợ, các khái niệm đằng sau quaternion bắt đầu hiện hình trong đầu ông, và khi câu trả lời xuất hiện trong đầu, Hamilton đã không thể ngăn bản thân khỏi khắc lại công thức nhân các quaternion,
vào đá của cầu Brougham khi ông dừng trên đó. Mặc dù vết khắc đã phai mờ đi, vẫn có cuộc hành hương diễn ra hằng năm kể từ năm 1989 được gọi là Hamilton Walk cho các nhà khoa học và các nhà toán học đi từ đài quan sát Dunsink cho tới cầu kênh hoàng gia để tưởng nhớ tới phát hiện của Hamilton.
And here there dawned on me the notion that we must admit, in some sense, a fourth dimension of space for the purpose of calculating with triples ... An electric circuit seemed to close, and a spark flashed forth.[13]
Tạm dịch: Và ngay khi đó, tôi nhận ra rằng chúng ta phải chấp nhận rằng, theo một cách nào đó, ta cần chiều thứ tư trong không gian để có thể tính toán với bộ ba số ... Một mạch điện đã đóng và từ đó một tia lửa đã được tóe ra.
Hamilton gọi bộ bốn số này cùng với quy tắc nhân là quaternion, và ông dành hầu như toàn bộ phần còn lại của cuộc đời để nghiên cứu và dạy chúng. Phương pháp xử lý của Hamilton nghiêng về hình học nhiều hơn hướng tiếp cận hiện đại sử dụng các tính chất đại số. Ông thành lập trường của các "quaternionist", và ông cũng đã gắng sức dạy và truyền bá quaternion trong nhiều sách. Cuốn cuối cùng và dài nhất của ông, Elements of Quaternions,[14] dài 800 trang; nó được con trai ông biên tập và được xuất bản không lâu sau khi ông mất đi.
Sau khi Hamilton mất đi, nhà toán học vật lý người Scotland Peter Tait trở thành người đứng đầu. Tại thời điểm đó, quaternion trở thành chủ đề bắt buộc trong các bài thi ở Dublin. Các chủ đề trong vật lý và hình học mà ngày nay thường được diễn giải bằng vectơ (chẳng hạn như chuyển động học trong không gian hay phương trình Maxwell thì lúc đó được mô tả toàn bộ bằng các quaternion. Thậm chí còn có một hiệp hội các chuyên gia nghiên cứu, Hiệp hội Quaternion tập trung nghiên cứu các số quaternion và các hệ số siêu phức khác.
Kể từ giữa khoảng 1880s, quaternion bắt đầu được thay dần bằng giải tích vectơ, nhánh này được phát triển bởi Josiah Willard Gibbs, Oliver Heaviside, và Hermann von Helmholtz. Giải tích vectơ mô tả cùng một hiện tượng với các quaternion, do đó nó lấy một số ý tưởng và thuật ngữ từ các bài viết của quaternion sang. Tuy nhiên, giải tích vectơ đơn giản hơn khi nói về khái niệm hay ký hiệu và do đó, quaternion chỉ còn đóng vai trò nhỏ trong toán học và vật lý. Một hiệu ứng phụ trong sự chuyển đổi này là công trình của Hamilton trở nên khó hiểu cho nhiều người đọc đương đại. Định nghĩa ban đầu của Hamilton không quen thuộc với hiện tại và cách viết của ông dài và rất khó có thể theo.
Bài viết năm 1984 của P.R. Girard The quaternion group and modern physics (dịch: nhóm quaternion và vật lý hiện đại)[19] thảo luận về một số vai trò của quaternion trong vật lý. Bài viết cho thấy một số nhóm hiệp phương sai trong vật lý, chẳng hạn như SO(3), nhóm Lorentz, lý thuyết tổng quát của nhóm tương đối, đại số Clifford SU(2) và nhóm bảo giác, đều có thể liên hệ dễ dàng với nhóm quaternion trong đại số trừu tượng. Trong 1999, Girard cho thấy rằng cách các phương trình Einstein trong thuyết tương đối rộng có thể viết lại trong khuôn khổ của một đại số Clifford liên kết trực tiếp với các quaternion.[20]
Phát hiện trong 1924 rằng trong cơ học lượng tử, spin của một electron và các hạt khác (được gọi là spinor) có thể mô tả bằng quaternion (dưới dạng ma trận spin Pauli nổi tiếng) làm tăng độ nổi bật của quaternion; quaternion giúp hiểu cách các phép quay các electron trong 360° có thể phân biệt với những cái trong 720° ("mẹo Plate").[21][22] Tính đến năm 2018[cập nhật], ứng dụng của nó vẫn chưa vượt qua nhóm quay.[a]
trong đó a, b, c, d, là các số thực, và i, j, k, ký hiệu cho các vectơ đơn vị trên ba trục không gian. Trong thực tiễn, nếu như một trong a, b, c, d bằng 0 thì ta bỏ phần tử tương ứng với nó; nếu a, b, c, d đều bằng không, thì quaternion được gọi là quaternion không, hay là 0; nếu một trong b, c, d bằng với 1, thì có thể bỏ số 1 đó đi trong biểu diễn.
Hamilton mô tả quaternion bao gồm hai phần đó là phần vô hướng và phần vectơ. Quaternion được gọi là phần vectơ (đôi khi gọi là phần ảo) của q, và a là phần vô hướng (đổi khi phần thực) của q. Quaternion mà bằng với phần thực của nó (nghĩa là phần vectơ của nó là vectơ không) được gọi là quaternion vô hướng hoặc quaternion thực, và được xác định bằng số thực tương ứng. Tức là, các số thực được nhúng trong các quaternion. (Nói rõ hơn, nghĩa là trường các số thực đẳng cấu với một tập con của tập các quaternion. Trường các số phức đẳng cấu với ba tập con của tập các quaternion.)[23] Quaternion mà bằng với phần vectơ thì được gọi là quaternion vectơ .
Tập các quaternion lập thành không gian vectơ 4 chiều trên các số thực, với làm cơ sở, theo phép cộng từng phần
và phép nhân vô hướng
Phép nhân, hay còn gọi là tích Hamilton, có thể định nghĩa trên các quaternion như sau:
Các quaternion thực thì sẽ giao hoán với các quaternion khác, tức là aq = qa cho mọi quaternion q và cho mọi quaternion thực a. Trong đại số trừu tượng, cái này tương ứng với việc nói rằng trường các quaternion thực là tâm của đại số quaternion.
Phép nhân đầu tiên định nghĩa trước cho các phần tử cơ sở (xem mục dưới), rồi mở rộng cho tất cả quaternion bằng cách dùng tính chất phân phối và tính chất tâm của các quaternion thực. Tích Hamilton không giao hoán nhưng có tính kết hợp, và do vậy các quaternion lập thành đại số kết hợp trên các số thực.
Bên cạnh đó, mỗi quaternion khác không đều có nghịch đảo tương ứng với tích Hamilton:
Do đó các số quaternion cũng lập thành đại số chia.
Tâm của vành không giao hoán là vành con của các phần tử c thỏa mãn cx = xc với mọi x. Tâm của đại số quaternion là trường con của các quaternion thực. Thậm chí, nó còn là một phần của định nghĩa rằng các quaternion thuộc về tâm. Ngược lại, nếu q = a + bi + cj + dk thuộc về tâm, thì
và c = d = 0. Tính toán tương tự với j thay cho i cho thấy b = 0. Do đó q = a là quaternion thực.
Các quaternion lập thành đại số chia. Điều này có nghĩa là chỉ có duy nhất tính không giao hoán của quaternion khiến cho chúng không thể lập thành một trường. Tính không giao hoán này có một số hệ quả, trong đó bao gồm phương trình đa thức trên các quaternion có thể có nhiều nghiệm phân biệt hơn số bậc trong đa thức. Ví dụ, phương trình z2 + 1 = 0, có vô số nghiệm quaternion, là các quaternion z = bi + cj + dk thỏa mãn b2 + c2 + d2 = 1. Do đó "căn bậc hai của –1" lập thành mặt cầu đơn vị trong không gian ba chiều của các quaternion vectơ.
Cho hai phần tử a1 + b1i + c1j + d1k and a2 + b2i + c2j + d2k, tích của chúng, được gọi là tích Hamilton (a1 + b1i + c1j + d1k) (a2 + b2i + c2j + d2k), được xác định bởi tích các phần tử cơ sở và luật phân phối. Nhờ có luật phân phối mà ta có thể khai triển tích thành tổng của tích các phần tử cơ sở. Ta được kết quả sau:
Sau đó, các phần tử cơ sở có thể nhân với nhau theo luật trên để thu được:[8]
Không thể phân tích cú pháp (MathML hoặc SVG/PNG (khuyến khích các trình duyệt và công cụ trợ năng hiện đại): Phản hồi không hợp lệ (“Math extension cannot connect to Restbase.”) từ máy chủ “http://localhost:6011/vi.wikipedia.org/v1/”:): {\displaystyle \begin{alignat}{4} &a_1a_2 &&- b_1b_2 &&- c_1c_2 &&- d_1d_2\\ {}+{} (&a_1b_2 &&+ b_1a_2 &&+ c_1d_2 &&- d_1c_2) \mathbf i\\ {}+{} (&a_1c_2 &&- b_1d_2 &&+ c_1a_2 &&+ d_1b_2) \mathbf j\\ {}+{} (&a_1d_2 &&+ b_1c_2 &&- c_1b_2 &&+ d_1a_2) \mathbf k \end{alignat}}
Tích của hai quaternion quay[24] sẽ tương ứng với phép quay a2 + b2i + c2j + d2k theo sau bởi phép quay với a1 + b1i + c1j + d1k.
Quaternion dưới dạng a + 0 i + 0 j + 0 k, trong đó phần tử a là số thực và được gọi là phần tử vô hướng,còn quaternion dạng 0 + bi + cj + dk, trong đó b, c, và d là số thực và có ít nhất một trong b, c, hoặc d khác không, thì được gọi là quaternion vector. Nếu a + bi + cj + dk là quaternion tuỳ ý, thì a được gọi là phần vô hướng và bi + cj + dk được gọi là phần vector của nó. Mặc dù mọi quaternion có thể xem là vector trong không gian vectơ bốn chiều, người ta thường hay xem phần vector là vectơ trong không gian ba chiều hơn. Với cách quy ước này, phần vector tương tự với phần tử của không gian vectơ ba chiều [b]
Hamilton còn gọi quaternion vectơ là các quaternion phải[26][27] và gọi các số thực (được coi là các quaternion có phần vectơ là vectơ không) là quaternion vô hướng.
Nếu một quaternion được chia thành phần vô hướng và phần vectơ:
thì công thức cho phép cộng, phép nhân và nghịch đảo của phép nhân sẽ là
Liên hợp của quaternion giống với liên hợp của số phức và giống với chuyển vị (hay còn gọi là đảo chiều ) của các phần tử của đại số Clifford. Để định nghĩa, gọi là quaternion. liên hợp của q là quaternion . Nó được ký hiệu bằng q∗, qt, , hay q.[8] Phép liên hợp là phép đối hợp, nghĩa là nó là nghịch đảo của chính nó, do đó liên hợp lại một quaternion đã được liên hợp sẽ ra quaternion gốc. Liên hợp của tích hai quaternion là tích của hai liên hợp theo thứ tự ngược lại. Tức là nếu p và q là quaternion, thì (pq)∗ = q∗p∗, chứ không phải p∗q∗.
Liên hợp của quaternion trái ngược bên ngoài với các số phức ở chỗ các liên hợp của chúng đều có thể biểu diễn bằng phép nhân và cộng của quaternion:
Phép liên hợp có thể dùng để lấy phần vô hướng và phần vectơ của quaternion. Phần vô hướng của p là 1/2(p + p∗), còn phần vectơ của p là 1/2(p − p∗).
Căn bậc hai của tích của một quaternion với liên hợp của chính nó được gọi là chuẩn và được ký hiệu là {{|q}} (Hamilton gọi giá trị này là tensor của q, song điều này dẫn tới mâu thuẫn với định nghĩa đương đại của "tensor"). Trong các công thức, nó được biểu diễn như sau:
Kết quả luôn là số thực không âm, và nó tương tự với chuẩn Euclid khi được xét là không gian vectơ. Nhân quaternion bằng một số thực thì cũng sẽ nhân lên giá trị tuyệt đối của số thực đó vào chuẩn. Nghĩa là, nếu α thực, thì
Đây là trường hợp đặc biệt của nội dung chuẩn có tính nhân tính, tức là
với mọi quaternion p và q. Tính nhân tính là hệ quả của công thức liên hợp của tích. Hoặc ta có thể chứng minh từ định thức.
(trong đó i là đơn vị ảo quen thuộc) và từ tính nhân tính của định thức của các ma trận vuông.
Chuẩn này cho phép ta định nghĩa khoảng cáchd(p, q) giữa p và q là chuẩn của hiệu giữa chúng:
Từ đây, là không gian mêtric.
Phép cộng và phép nhân liên tục tương ứng với tô pô mêtric.
Cái này có thể lập luận từ cùng một bài chứng minh cho số thực từ nội dung là đại số định chuẩn.
Quaternion đơn vị là quaternion có chuẩn 1. Chia quaternion q khác không cho chuẩn không của nó sẽ ra quaternion đơn vị Uq được gọi là versor của q:
Mỗi quaternion khác không đều có dạng phân tích cực duy nhất , trong khi quaternion không có thể lập thành từ bất kỳ quaternion đơn vị.
Sử dụng liên hợp và chuẩn giúp định nghĩa nghịch đảo của quaternion đơn vị. Tích của quaternion với nghịch đảo của nó phải bằng 1, và từ các nội dung trên sẽ suy ra rằng tích của và bằng 1 (theo cả hai hướng nhân). Do đó nghịch đảo của q được định nghĩa là
Bởi phép nhân không giao hoán, các giá trị p q−1 hoặc q−1p khác nhau (trừ khi p và q là bội của nhau hoặc một trong số chúng vô hướng): ký hiệu p/q không xác định và do đó không nên dùng.
Tập hợp của tất cả quaternion là không gian vectơ trên số thực với số chiều 4.[c] Phép nhân các quaternion có tính kết hợp và phân phối trên phép cộng vectơ. Trừ khi là nhân với phần tử trong tập các phần tử vô hướng, phép nhân không có tính giao hoán . Do đó, tập các quaternion là đại số kết hợp và không giao hoán trên số thực. Mặc dù có chứa bản sao của số phức, nó không phải đại số kết hợp trên số phức.
Bởi có thể chia quaternion, chúng lập thành đại số chia. Cấu trúc tương tự với trường ngoại trừ tính không giao hoán của phép nhân. Đại số chia, kết hợp mà hữu hạn chiều trên số thực cực kỳ hiếm. Định lý Frobenius phát biểu chỉ có ba đại số như thế: , , và . Định nghĩa chuẩn khiến cho tập các quaternion lập đại số định chuẩn. Đại số định chuẩn trên số thực cũng rất hiếm, định lý Hurwitz nói rằng chỉ có đúng bốn: , , , và (octonion). Các quaternion còn là ví dụ của đại số hợp thành và của đại số Banach unita.
Bởi tích của hai vectơ cơ sở hoặc ra giá trị âm hoặc ra giá trị dương của vectơ cơ sở còn lại, tập {±1, ±i, ±j, ±k} lập thành một nhóm dưới phép nhân. Nhóm không giao hoán này được gọi là nhóm quaternion và ký hiệu là Q8.[28]Vành nhóm thực của Q8 là vành và cũng đồng thời là không gian vectơ 8 chiều trên Nó có một vectơ cơ sở cho mỗi phần tử của Các quaternion đẳng cấu với vành thương của chia bởi ideal sinh bởi các phần tử 1 + (−1), i + (−i), j + (−j), và k + (−k). Ở đây phần tử đầu tiên trong mỗi hiệu là một trong các phần tử cơ sở 1, i, j, và k, còn phần tử cơ sở thứ hai là một trong −1, −i, −j, và −k, chứ không phải nghịch đảo phép cộng của 1, i, j, và k.
Phần vectơ của quaternion có thể xem là vectơ toạ độ trong do đó các phép toán đại số với quaternion phản ánh hình học của Các phép toán như phép nhân vô hướng và phép nhân có hướng có thể định nghĩa bằng quaternion, và do đó ta có thể áp dung chúng bất cứ khi nào xuất hiện vectơ không gian. Một ứng dụng hữu ích của quaternion đó là nội suy giữa các hướng của khung chính trong đồ hoạ máy tính.[15]
Trong phần còn lại của mục này, i, j, và k sẽ đồng thời ký hiệu[29] ba vectơ cơ sở ảo của và là cơ sở của Thay i bằng −i, j bằng −j, và k bằng −k sẽ đổi vectơ thành nghịch đảo phép cộng của nó, do đó nghịch đảo phép cộng của vectơ tương ứng với liên hợp của quaternion. Vì vậy, đôi khi liên hợp được gọi là nghịch đảo không gian.
Cho hai quaternion p = b1i + c1j + d1k và q = b2i + c2j + d2k, tích vô hướng của chúng tương ứng với vectơ trong là
Nó cũng có thể biểu diễn như sau mà không phải phân tích ra
Giá trị này bằng với phần vô hướng của pq∗, qp∗, p∗q, và q∗p. Lưu ý phần vectơ của chúng khác nhau.
Tích có hướng của p và q tương ứng với hướng xác định bởi i, j, và k là
(Lưu ý hướng được dùng để xác định dấu.) Giá trị này bằng với phần vectơ của pq, và cũng bằng phần vectơ của −q∗p∗. Nó có công thức sau
Đối với giao hoán tử, [p, q] = pq − qp, ta cũng có thể suy ra rằng
Tổng quát, gọi p và q là quaternion và viết
trong đó ps và qs là phần vô hướng, còn pv là qv là phần vectơ của p và q, thì ta có công thức
Công thức cho thấy tính không giao hoán của phép nhân quaternion đến từ phép nhân phần vectơ của chúng. Nó cũng cho thấy hai quaternion giao hoán với nhau khi phần vectơ của chúng đối tuyến tính. Hamilton[30] chứng minh rằng tích này tính ra toạ độ thứ ba của hình tam giác cầu từ hai đỉnh cho trước và độ dài góc tương ứng của chúng, và cũng đồng thời là đại số điểm trong hình học elliptic.
Quaternion đơn vị đồng nhất với phép quay trong và được gọi là versor bởi Hamilton.[30] Để hiểu rõ hơn, xem quaternion và phép quay không gian về mô hình hoá quay ba chiều sử dụng quaternion.
Tương tự như số phức, quaternion có thể biểu diễn bằng ma trận. Có ít nhất hai cách biểu diễn các quaternion sao cho phép cộng và phép nhân của quaternion tương ứng với phép cộng và phép nhân của ma trận. Một trong số đó là dùng ma trận phức 2 × 2, và một cách khác là dùng ma trận thực 4 × 4.Trong mỗi cách, biểu diễn thu được là một trong họ các biểu diễn tuyến tính tương tự. Sử dụng đại số trừu tượng, đây là các đơn cấu từ tới vành ma trậnM(2,C) và M(4,R), tương ứng.
Quaternion a + bi + cj + dk có thể biểu diễn thành ma trận phức 2 × 2 như sau
Cách biểu diễn này có các tính chất sau:
Buộc hai trong b, c và d bằng 0 sẽ ra số phức.Ví dụ, đặt c = d = 0 sẽ ra biểu diễn ma trận chéo phức của số phức, còn nếu dùng b = d = 0 thì sẽ ra biểu diễn ma trận thực.
Chuẩn của quaternion (căn bậc hai của tích với liên hợp, giống với số phức) là căn bậc hai của định thức của ma trận tương ứng.[32]
Liên hợp của quaternion tương ứng với chuyển hợp của ma trận.
Khi giới hạn, biểu diễn này ra đẳng cấu giữa nhóm các quaternion đơn vị với ảnh của chúng SU(2). Trong tô pô, tập các quaternion đơn vị lập 3-cầu, do đó không gian nền của SU(2) cũng là 3-cầu. Nhóm SU(2) quan trọng cho mô tả spin trong vật lý lượng tử; xem ma trận Pauli.
Có mối quan hệ mạnh mẽ giữa các quaternion đơn vị với các ma trận Pauli. Ta thu về tám ma trận quaternion đơn vị bằng cách xét a, b, c và d, đặt một trong số chúng bằng 0 và cái còn lại lấy 1 hoặc −1. Nhân bất kỳ hai trong ba ma trận Pauli sẽ luôn ra ma trận quaternion đơn vị, tất cả ngoại trừ -1. Ta thu −1 qua i2 = j2 = k2 = i j k = −1; tức đẳng thức cuối là
Sử dung các ma trận thực 4 × 4, cũng cùng quaternion đó có thể viết như sau
Tuy nhiên, biểu diễn của quaternion trong M(4,R) không độc nhất. Chẳng hạn, vẫn cùng quaternion trên, nó có thể biểu diễn thành
Có 48 cách biểu diễn ma trận riêng biệt dưới dạng này trong đó một trong số các ma trận biểu diễn phần vô hướng còn ba ma trận còn lại đều phản đối xứng. Cụ thể hơn, có 48 tập các bộ bốn ma trận với ràng buộc đối xứng sao cho hàm gửi 1, i, j, và k đến các ma trận trong bộ bốn là đồng cấu, tức là nó gửi tổng và tích của quaternion tới tổng và tích của ma trận.[33]
Trong cách biểu diễn này, liên hợp của quaternion tương ứng với chuyển vị của ma trận. Luỹ thừa bậc bốn của chuẩn của quaternion là định thức của ma trận tương ứng . Giống với biểu diễn phức 2 × 2 ở trên, có thể viết biểu diễn các số phức bằng cách ràng buộc hợp lý các giá trị; ví dụ, biểu diễn thành ma trận khối chéo với hai khối 2 × 2 bằng cách đặt c = d = 0.
Mỗi biểu diễn ma trận 4×4 của quaternion tương ứng với một bảng nhân của các quaternion đơn vị. Ví dụ chẳng hạn, biểu diễn thứ hai ở trên tương ứng với bảng nhân
×
a
d
−b
−c
a
a
d
−b
−c
−d
−d
a
c
−b
b
b
−c
a
−d
c
c
b
d
a
đẳng cấu — qua — với
×
1
k
−i
−j
1
1
k
−i
−j
−k
−k
1
j
−i
i
i
−j
1
−k
j
j
i
k
1
Buộc bất kỳ bảng nhân phải để phần tử trung hoà ở hàng đầu và cột đầu và dấu của các đầu hàng phải trái với dấu của đầu cột, thì có 3 lựa chọn khả thi cho cột thứ hai (không quan tâm dấu), 2 lựa chọn khả thi cho cột thứ ba (không quan tâm dấu) và 1 lựa chọn khả thi (không quan tâm dấu) cho cột thứ tư; ta được sáu lựa chọn khả thi. Sau đó khi quan tâm dấu, mỗi cột có thể âm hoặc dương, có ba cột và vì vậy có 23=8 lựa chọn cho dấu mỗi cột. Nhân số lựa chọn phần tử với số lựa chọn dấu sẽ ra 48. Sau đó thay 1 bằng a, i bằng b, j bằng c, và k bằng d rồi bỏ các hàng đầu và cột đầu sẽ ra biểu diễn ma trận của a + bi + cj + dk.
Quaternion cũng được dùng trong một trong trong các bài chứng minh cho định lý bốn số chính phương của Lagrange trong lý thuyết số, định lý này phát biểu rằng mọi số nguyên không âm là tổng của bốn số chính phương. Bên cạnh việc định lý này rất là gọn, định lý còn có ứng dụng hữu ích trong các nhánh toán học ngoài lý thuyết số, chẳng hạn như trong lý thuyết thiết kế tổ hợp. Bài chứng minh dựa trên quaternion sử dụng các quaternion Hurwitz, các quaternion này là vành con của vành các quaternion có chứa thuật toán với thuật toán Euclid.
Quaternion có thể biểu diễn bằng cặp hai số phức. Từ góc nhìn này, các quaternion là kết quả của việc áp dụng xây dựng Cayley–Dickson đến số phức. Đây là dạng tổng quát của xây dựng số phức từ cặp hai số thực.
Gọi là không gian vectơ hai chiều trên số phức. Chọn cơ sở bao gồm hai phần tử 1 và j. Một vectơ trong có thể viết thành tổ hợp của các phần tử cơ sở 1 và j như sau
Nếu ta định nghĩa j2 = −1 và ij = −ji, thì ta có thể định nghĩa phép nhân vectơ sử dụng luật phân phối. Sử dụng k làm ký hiệu viết tắt cho tích ij dẫn tới cùng luật cho phép nhân của quaternion. Do đó, vectơ trên của các số phức tương ứng với quaternion a + b i + cj + dk. Nếu ta viết phần tử của là cặp được sắp và các quaternion là bộ bốn, thì tương ứng giữa chúng
Trong số phức, có đúng hai số, i và −i, cho ra −1 khi bình phương lên. Trong , có vô hạn giá trị cho căn bậc hai của -1: nghiệm quaternion cho căn bậc hai của −1 là mặt cầu đơn vị trong Để hiểu rõ, gọi q = a + bi + cj + dk là quaternion và là căn bậc hai của −1. Khi đó, xét a, b, c, và d, ta được
Để thoả mãn ba phương trình cuối, hoặc a = 0 hoặc b, c, và d đều bằng 0. Lựa chọn sau bất khả thi bởi a là số thực và nếu chọn như thế thì sẽ suy ra a2 = −1. Do đó, a = 0 và b2 + c2 + d2 = 1. Nói cách khác: quaternion có bình phương bằng −1 khi và chỉ khi nó là quaternion vectơ với chuẩn 1. Theo định nghĩa, mọi vectơ như thế lập thành mặt cầu đơn vị.
Chỉ có số quaternion thực và âm mới có vô hạn số căn bậc hai. Những giá trị còn lại chỉ có hai (hoặc một trong trường hợp của 0).[cần dẫn nguồn][d]
Mỗi cặp đối cực của căn bậc hai của −1 tạo một bản sao phân biệt của số phức trong các quaternion. Nếu q2 = −1, thì bản sao là ảnh của hàm số
Đây là đơncấu vành từ đến định nghĩa đẳng cấu trường từ đến ảnh của nó. Ảnh của phép nhúng tương ứng với q và −q bằng nhau.
Mọi quaternion không thực sinh đại số con của các quaternion mà đẳng cấu với và do đó là không gian con phẳng của viết q thành tổng của phần vô hướng và phần vectơ:
Phân tích phần vectơ thành tích của chuẩn của nó với versor:
(Cái này khác với .) Versor của phần vectơ q, , là versor phải với –1 là bình phương của nó. Dễ kiểm chứng rằng
định nghĩa đồng cấu đại số có tính đơn ánh của các đại số định chuẩn từ đến các quaternion. Dưới đồng cấu này, q là ảnh của số phức .
Mối quan hệ của các quaternion với nhau trong mặt phẳng phức của có thể xác định và biểu diễn bằng các vành congiao hoán. Cụ thể, bởi hai quaternion p và q giao hoán (tức p q = q p) chỉ khi chúng nằm trong cùng mặt phẳng phức của , ý tưởng là hợp của các mặt phức nảy sinh khi ta muốn tìm tất cả vành con giao hoán của vành quaternion.
Bất kỳ quaternion (biểu diễn dưới dạng cặp vô hướng và vectơ) có ít nhất một căn bậc hai giải phương trình . Nhìn riêng biệt vào phần vô hướng và vectơ trong phương trình sẽ ra hai phương trình, sau khi giải chúng sẽ ra nghiệm
trong đó là chuẩn của và là chuẩn của . Đối với quaternion vô hướng , phương trình này cho đúng giá trị căn bậc hai nếu được coi là vectơ đơn vị tuỳ ý.
Do đó, các quaternion không vô hướng và khác không hoặc các quaternion dương có chính xác hai căn bậc hai, trong khi 0 chỉ có một (0), còn quaternion vô hướng và âm thì có vô số căn bậc hai, và là các quaternion vectơ nằm trên ,tức phần vô hướng bằng 0 còn phần vectơ thì nằm trên 2-cầu có bán kinh .
Giống hàm số với biến phức, các hàm với biến quaternion gợi ý đến mô hình vật lý hữu dụng. Chẳng hạn, mô tả gốc của Maxwell về từ trường và điện trường sử dụng hàm biến quaternion. Các ví dụ khác bao gồm mở rộng tập Mandelbrot và tập Julia sang không gian bốn chiều.[37]
và tương ứng với giá trị tuyệt đối của một nửa góc đối diện bởi p và q trên cung lớn của mặt S3-cầu.
Góc này cũng có thể tính từ tích vô hướng của quaternion mà không sử dụng lôgarit:
Phần này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện Phần bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây.(October 2018)
Từ "liên hợp", ngoài nghĩa ở trên còn có nghĩa là biến đổi phần tử a thành r a r−1 trong r là quaternion khác không nào đó. Tất cả phần tử liên hợp với một phần tử cho trước (theo nghĩa của "liên hợp" trong đây) có cùng phần thực và cùng giá trị chuẩn của phần vectơ. (Do đó liên hợp ở trên là một trong họ các phần tử "liên hợp" dưới đây.) [41]
Do vậy, nhóm nhân tính của quaternion khác không tác động bằng liên hợp lên bản sao của bao gồm các quaternion có phần thực bằng không. Liên hợp bởi quaternion đơn vị (quaternion có chuẩn 1) với phần thực cos(φ) là phép quay với góc 2φ, trục quay là hướng của phần vectơ. Các ưu điểm của phép quay bằng quaternion này là:[42]
Tránh khoá gimbal (gimbal lock), một vấn đề với các hệ thống như góc Euler.
Nhanh hơn và gọn hơn khi tính với ma trận.
Biểu diễn không kỳ dị (so sánh với góc Euler chẳng hạn).
Tập các quaternion đơn vị (versor) lập thành 3-cầu S3 và nhóm (nhóm Lie) dưới phép nhân, phủ hai lần nhóm của các ma trận trực giao thực 3×3 với định thức 1 bởi hai quaternion đơn vị tương ứng với phép quay dưới tương ứng trên. Xem mẹo đĩa.
Ảnh của nhóm con các versor là nhóm điểm, và ngược lại, tạo ảnh của nhóm điểm là nhóm con các versor. Tạo ảnh của nhóm điểm hữu hạn được gọi cùng tên nhưng thêm hậu tố nhị phân. Lấy ví dụ, tạo ảnh của nhóm icosahedral là nhóm icosahedral nhị phân.
Gọi A là tập các quaternion dưới dạng a + bi + cj + dk trong đó a, b, c, và d hoặc đều là số nguyên hoặc đều là số bán nguyên. Tập A này là vành (thậm chí còn là miền) và là lưới, được gọi là vành các quaternion Hurwitz . Có 24 quaternion đơn vị này và chúng đều là đỉnh của 24-cell đều (hình 24 đỉnh trong không gian 4 chiều) với dấu Schläfli{3,4,3}.[43]
Các quaternion có tổng quát hơn nữa thành đại số gọi là đại số quaternion. Gọi F là bất kỳ có đặc trưng khác 2, và a và b là các phần tử của F; đại số kết hợp, unita và bốn chiều có thể định nghĩa trên F với cơ sở 1, i, j, và i j, trong đó i2 = a, j2 = b và i j = −j i (nên (i j)2 = −a b).
Đại số quaternion đẳng cấu với đại số các ma trận 2×2 trên F .
Tính hữu dụng của quaternion cho tính toán hình học có thể tổng quát cho các chiều khác bằng việc xác định quaternion là phần chẵn của đại số Clifford Đây là đại số đa vectơ kết hợp được xây từ các phần tử cơ sở nền tảng σ1, σ2, σ3 sử dụng quy tắc tính tích sau
Nếu các phần tử cơ sở này được dùng để biểu diễn vectơ trong không gian 3D, thì ta có thể nhận ra rằng phản xạ của vectơ r trong mặt phẳng vuông góc với vectơ đơn vị w có thể viết thành:
Hai phản xạ sẽ tạo phép quay bởi góc gấp đối góc giữa hai mặt phẳng phản xạ, do đó
tương ứng với quay 180° trong mặt phẳng chứa σ1 và σ2. Điều này rất tương tự với công thức quaternion tương ứng,
Thật vậy, hai cấu trúc và đẳng cấu với nhau. Một ánh xạ dễ tìm đó là
và dễ kiểm chứng lại nó bảo toàn các quan hệ của Hamilton
I regard it as an inelegance, or imperfection, in quaternions, or rather in the state to which it has been hitherto unfolded, whenever it becomes or seems to become necessary to have recourse to x, y, z, etc.
Time is said to have only one dimension, and space to have three dimensions. ... The mathematical quaternion partakes of both these elements; in technical language it may be said to be "time plus space", or "space plus time": and in this sense it has, or at least involves a reference to, four dimensions. ... And how the One of Time, of Space the Three, Might in the Chain of Symbols girdled be.
Quaternions came from Hamilton after his really good work had been done; and, though beautifully ingenious, have been an unmixed evil to those who have touched them in any way, including Clerk Maxwell.
There was a time, indeed, when I, although recognizing the appropriateness of vector analysis in electromagnetic theory (and in mathematical physics generally), did think it was harder to understand and to work than the Cartesian analysis. But that was before I had thrown off the quaternionic old-man-of-the-sea who fastened himself about my shoulders when reading the only accessible treatise on the subject – Prof. Tait's Quaternions. But I came later to see that, so far as the vector analysis I required was concerned, the quaternion was not only not required, but was a positive evil of no inconsiderable magnitude; and that by its avoidance the establishment of vector analysis was made quite simple and its working also simplified, and that it could be conveniently harmonised with ordinary Cartesian work. There is not a ghost of a quaternion in any of my papers (except in one, for a special purpose). The vector analysis I use may be described either as a convenient and systematic abbreviation of Cartesian analysis; or else, as Quaternions without the quaternions, .... "Quaternion" was, I think, defined by an American schoolgirl to be "an ancient religious ceremony". This was, however, a complete mistake. The ancients – unlike Prof. Tait – knew not, and did not worship Quaternions.
Neither matrices nor quaternions and ordinary vectors were banished from these ten [additional] chapters. For, in spite of the uncontested power of the modern Tensor Calculus, those older mathematical languages continue, in my opinion, to offer conspicuous advantages in the restricted field of special relativity. Moreover, in science as well as in everyday life, the mastery of more than one language is also precious, as it broadens our views, is conducive to criticism with regard to, and guards against hypostasy [weak-foundation] of, the matter expressed by words or mathematical symbols.
... quaternions appear to exude an air of nineteenth century decay, as a rather unsuccessful species in the struggle-for-life of mathematical ideas. Mathematicians, admittedly, still keep a warm place in their hearts for the remarkable algebraic properties of quaternions but, alas, such enthusiasm means little to the harder-headed physical scientist.
^Một góc nhìn cá nhân hơn đến từ Joachim Lambek trong 1995. Ông viết trong bài văn If Hamilton had prevailed: quaternions in physics (dịch: Nếu Hamilton thắng thế: quaternion trong vật lý) rằng : "My own interest as a graduate student was raised by the inspiring book by Silberstein". Ông kết luận bằng phát biểu rằng "I firmly believe that quaternions can supply a shortcut for pure mathematicians who wish to familiarize themselves with certain aspects of theoretical physics." (dịch: Tôi tin rằng các quaternion có thể dùng làm đường tắt cho những nhà toán học thuần tuý muốn làm quen với một số nội dung của vật lý lý thuyết) Lambek, J. (1995). “If Hamilton had prevailed: Quaternions in physics”. Math. Intelligencer. 17 (4): 7–15. doi:10.1007/BF03024783.
^It is important to note that the vector part of a quaternion is, in truth, an "axial" vector or "pseudovector", not an ordinary or "polar" vector, as was formally proven by Altmann (1986).[25] A polar vector can be represented in calculations (for example, for rotation by a quaternion "similarity transform") by a pure imaginary quaternion, with no loss of information, but the two should not be confused. The axis of a "binary" (180°) rotation quaternion corresponds to the direction of the represented polar vector in such a case.
^Để so sánh, các số thực có số chiều 1, số phức có số chiều 2, và các octonion có số chiều 8.
^Xác định căn bậc hai của âm một trong được thực hiện bởi Hamilton[34] nhưng thường thì bỏ đi trong các văn bản khác. Vào 1971, nội dung mặt cầu được Sam Perlis thêm vào trong bài in phần trình bày ba trang của ông trong cuốn Historical Topics in Algebra xuất bản bởi National Council of Teachers of Mathematics.[35] Gần đây hơn, mặt cầu của các căn bậc hai của -1 được mô tả trong mệnh đề 8.13 trong cuốn sách Clifford Algebras and the Classical Groups (dịch: đại số Clifford và các nhóm cổ điển) (Cambridge, 1995) của Ian R. Porteous .[36]
^Các sách trên toán học ứng dụng, chẳng hạn như của Corke (2017)[39] thường dùng ký hiệu khác φ := 1/2θ — tức là, thay thànhθ = 2φ.
^Kunze, Karsten; Schaeben, Helmut (tháng 11 năm 2004). “The Bingham distribution of quaternions and its spherical radon transform in texture analysis”. Mathematical Geology. 36 (8): 917–943. doi:10.1023/B:MATG.0000048799.56445.59. S2CID55009081.
^Smith, Frank (Tony). “Why not sedenion?”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
^Bradley, Robert E.; Sandifer, Charles Edward (2007). Leonhard Euler: life, work and legacy. Elsevier. tr. 193. ISBN978-0-444-52728-8. They mention Wilhelm Blaschke's claim in 1959 that "the quaternions were first identified by L. Euler in a letter to Goldbach written on 4 May 1748," and they comment that "it makes no sense whatsoever to say that Euler "identified" the quaternions in this letter ... this claim is absurd."
^Gauss, C.F. (1900). “Mutationen des Raumes [Transformations of space] (c. 1819)”. Trong Martin Brendel (biên tập). Carl Friedrich Gauss Werke [The works of Carl Friedrich Gauss]. 8. article edited by Prof. Stäckel of Kiel, Germany. Göttingen, DE: Königlichen Gesellschaft der Wissenschaften [Royal Society of Sciences]. tr. 357–361.
^ abHamilton, W.R. (1844). “Letter”. London, Edinburgh, and Dublin Philosophical Magazine and Journal of Science. xxv: 489–495.
^Tomb Raider (1996) thường được chú tích là trò chơi điện tử thương mại đầu tiên sử dụng quaternion để đạt sự trơn suốt khi quay ba chiều. Xem chẳng hạn Nick Bobick (tháng 7 năm 1998). “Rotating objects using quaternions”. Game Developer.
^Huerta, John (27 tháng 9 năm 2010). “Introducing The Quaternions”(PDF). Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
^“Maths – Transformations using Quaternions”. EuclideanSpace. A rotation of q1 followed by a rotation of q2 is equivalent to a single rotation of q2 q1. Note the reversal of order, that is, we put the first rotation on the right hand side of the multiplication.
^Altmann, S.L. Rotations, Quaternions, and Double Groups. Ch. 12.
^Hamilton, Sir William Rowan (1866). “Article 285”. Elements of Quaternions. Longmans, Green, & Company. tr. 310.
Du Val, Patrick (1964). Homographies, quaternions, and rotations. Oxford mathematical monographs. Clarendon Press. LCCN64056979.
Michael J. Crowe (1967), A History of Vector Analysis: The Evolution of the Idea of a Vectorial System, University of Notre Dame Press. Surveys the major and minor vector systems of the 19th century (Hamilton, Möbius, Bellavitis, Clifford, Grassmann, Tait, Peirce, Maxwell, Macfarlane, MacAuley, Gibbs, Heaviside).
Pujol, Jose (2014). “On Hamilton's Nearly-Forgotten Early Work on the Relation between Rotations and Quaternions and on the Composition of Rotations”. The American Mathematical Monthly. 121 (6): 515–522. doi:10.4169/amer.math.monthly.121.06.515. S2CID1543951.
Adler, Stephen L. (1995). Quaternionic quantum mechanics and quantum fields. International series of monographs on physics. 88. Oxford University Press. ISBN0-19-506643-X. LCCN94006306.
Gürlebeck, Klaus; Sprössig, Wolfgang (1997). Quaternionic and Clifford calculus for physicists and engineers. Mathematical methods in practice. 1. Wiley. ISBN0-471-96200-7. LCCN98169958.
Kuipers, Jack (2002). Quaternions and Rotation Sequences: A Primer With Applications to Orbits, Aerospace, and Virtual Reality. Princeton University Press. ISBN0-691-10298-8.
Vince, John A. (2008). Geometric Algebra for Computer Graphics. Springer. ISBN978-1-84628-996-5.
For molecules that can be regarded as classical rigid bodies molecular dynamics computer simulation employs quaternions. They were first introduced for this purpose by Evans, D.J. (1977). “On the Representation of Orientation Space”. Mol. Phys. 34 (2): 317–325. Bibcode:1977MolPh..34..317E. doi:10.1080/00268977700101751.
Mebius, Johan E. (2005). "A matrix-based proof of the quaternion representation theorem for four-dimensional rotations". arΧiv:math/0501249.
Mebius, Johan E. (2007). "Derivation of the Euler–Rodrigues formula for three-dimensional rotations from the general formula for four-dimensional rotations". arΧiv:math/0701759.
David Erickson, Defence Research and Development Canada (DRDC), Complete derivation of rotation matrix from unitary quaternion representation in DRDC TR 2005-228 paper.
Morier-Genoud, Sophie; Ovsienko, Valentin (2008). "Well, Papa, can you multiply triplets?". arΧiv:0810.5562 [math.AC]. describes how the quaternions can be made into a skew-commutative algebra graded by Z/2 × Z/2 × Z/2.
Ibanez, Luis. “Tutorial on Quaternions. Part I”(PDF). Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011. Part II (PDF; using Hamilton's terminology, which differs from the modern usage)
Ghiloni, R.; Moretti, V.; Perotti, A. (2013). “Continuous slice functional calculus in quaternionic Hilbert spaces”. Rev. Math. Phys. 25 (4): 1350006–126. arXiv:1207.0666. Bibcode:2013RvMaP..2550006G. doi:10.1142/S0129055X13500062. S2CID119651315. Ghiloni, R.; Moretti, V.; Perotti, A. (2017). “Spectral representations of normal operators via Intertwining Quaternionic Projection Valued Measures”. Rev. Math. Phys. 29: 1750034. arXiv:1602.02661. doi:10.1142/S0129055X17500349. S2CID124709652. two expository papers about continuous functional calculus and spectral theory in quanternionic Hilbert spaces useful in rigorous quaternionic quantum mechanics.
Quaternions the Android app shows the quaternion corresponding to the orientation of the device.