Tỉnh của Ukraina | |
---|---|
Thể loại | Đơn vị hành chính cấp một của nhà nước đơn nhất |
Vị trí | Ukraina |
Thành lập | 27 tháng 2 năm 1932 |
Số lượng còn tồn tại | 24 (tính đến 1991) |
Dân số | 897.000 (Chernivtsi) đến 4.157.000 (Donetsk) |
Diện tích | 8.100 km2 (3.126 dặm vuông Anh) (Chernivtsi) đến 33.300 km2 (12.860 dặm vuông Anh) (Odesa) |
Hình thức chính quyền | Chính quyền nhà nước tỉnh, Hội đồng tỉnh |
Đơn vị hành chính thấp hơn | 136 huyện (raion)[nb 1] |
Tỉnh (tiếng Ukraina: область, oblast) tại Ukraina là đơn vị hành chính cấp một. Lãnh thổ Ukraina được chia thành 24 tỉnh, cùng Cộng hòa tự trị Krym, và hai 'thành phố có vị thế đặc biệt' là Kyiv và Sevastopol. Ukraina là một nhà nước đơn nhất, do vậy các tỉnh không có nhiều phạm vi thẩm quyền pháp lý ngoài hiến pháp và pháp luật quốc gia. Điều 140–146 của chương XI trong hiến pháp liên quan trực tiếp đến chính quyền địa phương và thẩm quyền của họ.
Các tỉnh được chia thành các huyện (raion), mỗi tỉnh có từ 3 đến 10 huyện sau cải cách vào tháng 7 năm 2020.[1]
Tại Ukraina thuật ngữ oblast biểu thị một đơn vị hành chính chủ yếu. Dưới thời Đế quốc Nga và cho đến thập niên 1920, Ukraina được phân chia giữa một số guberniya. Thuật ngữ oblast được chính phủ Liên Xô áp dụng vào năm 1932 khi CHXHCNXV Ukraina được chia thành bảy tỉnh, thay thế đơn vị hành chính trước đó là okruha và gồm có 406 huyện (raion).[2] Các tỉnh ban đầu là tỉnh Vinnytsia, tỉnh Kyiv, tỉnh Odesa, tỉnh Kharkiv và tỉnh Dnipropetrovsk. Ngay trong mùa hè năm 1932, tỉnh Donetsk được hình thành từ phần phía đông của các tỉnh Kharkiv và Dnipropetrovsk; đến mùa thu năm 1932 tỉnh Chernihiv được hình thành từ vùng ranh giới của các tỉnh Kyiv và Kharkiv.
Từ năm 1935 đến năm 1938, chính quyền Liên Xô lập ra một số okrug (okruha) đặc biệt tự quản ở dọc biên giới phía tây của Ukraina và Belarus. Sau khi xóa bỏ các okrug vào năm 1937–1938, mỗi tỉnh Kyiv, Vinnytsia, Odesa và Kharkiv được phân tách để hình thành bốn tỉnh mới (tỉnh Zhytomyr, tỉnh Kamianets-Podilsky (sau là Khmelnytskyi), tỉnh Mykolaiv, tỉnh Poltava). Ngay trước Thế chiến II, tỉnh Donetsk được phân tách thành tỉnh Stalino và tỉnh Voroshylovhrad, và tỉnh Kirovohrad được hình thành từ các vùng đất cũ của các tỉnh Kyiv, Mykolaiv và Odesa.
Trong Thế chiến II, Ukraina có thêm tám tỉnh thuộc Tây Ukraina và Bessarabia. Sau khi Đức Quốc Xã chiếm đóng Ukraina, lãnh thổ bị phân chia giữa Phủ tổng đốc Ba Lan, Vương quốc Romania và Reichskommissariat Ukraina và thi hành phân chia hành chính hoàn toàn khác. Sau khi Liên Xô tái lập quyền lực hậu chiến, đơn vị hành chính tỉnh được lập lại, có thêm một tỉnh mới là Zakarpattia. Năm 1954, tỉnh Krym được chuyển giao từ CHXHCNXVLB Nga cho CHXHCNXV Ukraina; trong cùng năm tỉnh Cherkasy hình thành từ một phần vùng đất của các tỉnh xung quanh, còn tỉnh Izmail được hợp nhất vào tỉnh Odesa. Năm 1959, tỉnh Drohobych được hợp nhất với tỉnh Lviv.
Hầu hết các tỉnh của Ukraina được đặt theo trung tâm hành chính tương ứng, đồng thời là thành phố lớn nhất và phát triển nhất trong tỉnh. Dân số các tỉnh là từ 904.000 tại tỉnh Chernivtsi đến 4,4 triệu tại tỉnh Donetsk. Trước năm 2020 các tỉnh thường được chia thành khoảng trung bình 20 huyện (11 tại Chernivtsi đến 27 tại Kharkiv và Vinnytsia).
Hiến pháp Ukraina quy định quốc gia này là một nhà nước đơn nhất:
Cấu trúc lãnh thổ của Ukraina dựa trên các nguyên tắc thống nhất và không thể phân chia lãnh thổ nhà nước, kết hợp tập trung hóa và phi tập trung hóa trong thi hành quyền lực nhà nước, và cân bằng phát triển kinh tế-xã hội của các khu vực có tính đến các đặc điểm lịch sử, kinh tế, sinh thái, địa lý và nhân khẩu, và các truyền thống dân tộc và văn hóa.
Các tỉnh của Ukraina có quyền lập pháp và hành pháp, hầu hết là dưới quyền chính phủ trung ương tại Kyiv. Các tỉnh được quản lý theo luật của chính phủ Ukraina và theo hiến pháp của quốc gia. Các tỉnh tự thu thuế, nộp một phần lên trung ương và được nhận lại một phần ngân sách.[3]
Quyền lực hành pháp tại mỗi tỉnh (cũng như các đơn vị khác của Ukraina) được thi hành bởi chính quyền được bầu cử cấp địa phương.[4] Nhà lãnh đạo của chính quyền địa phương do Tổng thống bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm theo đề cử của Nội các.[4][5] Do Ukraina là nhà nước đơn nhất, các chính quyền địa phương có ít quyền lực và sức nặng chính trị thực chất. Người đứng đầu chính quyền địa phương thi hành quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm trước Tổng thống và phụ thuộc các cơ quan hành pháp cấp cao hơn.[4] Theo hiến pháp người đứng đầu chính quyền cấp tỉnh sẽ từ chức sau khi tổng thống mới được bầu ra.[6]
Quyền lực lập pháp cấp tỉnh thuộc về các hội đồng tỉnh, họ giám sát hoạt động của chính quyền địa phương.[4] Hội đồng tỉnh cũng quản lý một lượng ngân sách đáng kể, các đại biểu được bầu ra mỗi bốn năm.
Tên gọi các tỉnh trong tiếng Ukraina là một tính từ quan hệ, hình thành bằng việc thêm một hậu tố giống cái vào tên của thành phố trung tâm tương ứng. Ví dụ Poltava là trung tâm của Poltavs'ka oblast' (tỉnh Poltava). Hầu hết các tỉnh đôi khi cũng được đề cập đến dưới dạng danh từ giống cái, thêm hậu tố "-shchyna" vào địa danh truyền thống của vùng. Ví dụ tỉnh Poltava được gọi là Poltavshchyna.
Ngoại lệ là hai tỉnh Volyn và Zakarpattia, chúng giữ lại tên vùng lịch sử tương ứng, Volyn' (Volhynia) và Zakarpattia (Ngoại Karpat), thủ phủ tương ứng là Lutsk và Uzhhorod.[7]
Thủ phủ của hai tỉnh Dnipropetrovsk và Kirovohrad được đổi tên thành Dnipro và Kropyvnytskyi vào năm 2016 trong quá trình thay thế tên gọi Xô viết. Do tên của các tỉnh được ghi trong Hiến pháp Ukraina nên việc thay đổi là quá trình phức tạp và kéo dài, do đó các tỉnh vẫn còn giữ các tên gọi Xô viết.[7]
Tỉnh | HASC | Diện tích (km2) | Dân số (2022) | Mật độ | Trung tâm hành chính | Huyện[1] | Thành phố quan trọng cấp tỉnh[nb 2][8] |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Cherkasy Oblast | CK | 20.891 | 1.198.000 | 61,80 | Cherkasy | 4 | 6 |
Chernihiv Oblast | CH | 31.851,3 | 994.000 | 34,67 | Chernihiv | 5 | 3 |
Chernivtsi Oblast | CV | 8.093,6 | 897.000 | 111,67 | Chernivtsi | 3 | 2 |
Dnipropetrovsk Oblast | DP | 31.900,5 | 3.214.000 | 104,83 | Dnipro | 7 | 13 |
Donetsk Oblast | DT | 26.505,7 | 4.157.000 | 167,81 | Donetsk (Kramatorsk) | 8 | 28 |
Ivano-Frankivsk Oblast | IF | 13.894,0 | 1.382.000 | 99,38 | Ivano-Frankivsk | 6 | 5 |
Kharkiv Oblast | KK | 31.401,6 | 2.683.000 | 87,74 | Kharkiv | 7 | 7 |
Kherson Oblast | KS | 28.449 | 1.026.000 | 38,35 | Kherson | 5 | 3 |
Khmelnytskyi Oblast | KM | 20.636,2 | 1.274.000 | 64,52 | Khmelnytskyi | 3 | 6 |
Kyiv Oblast | KV | 28.118,9 | 1.775.000 | 61,15 | Kyiv | 7 | 13 |
Kirovohrad Oblast | KH | 24.577,5 | 958.000 | 41,29 | Kropyvnytskyi | 4 | 4 |
Luhansk Oblast | LH | 26.672,5 | 2.145.000 | 86,25 | Luhansk | 8 | 14 |
Lviv Oblast | LV | 21.823,7 | 2.515.000 | 116,65 | Lviv | 7 | 9 |
Mykolaiv Oblast | MY | 24.587,4 | 1.126.000 | 48,25 | Mykolaiv | 4 | 5 |
Odesa Oblast | OD | 33.295,9 | 2.395.000 | 71,71 | Odesa | 7 | 7 |
Poltava Oblast | PL | 28.735,8 | 1.392.000 | 51,98 | Poltava | 4 | 5 |
Rivne Oblast | RV | 20.038,5 | 1.146.000 | 57,52 | Rivne | 4 | 4 |
Sumy Oblast | SM | 23.823,9 | 1.094.000 | 48,97 | Sumy | 5 | 7 |
Ternopil Oblast | TP | 13.817,1 | 1.035.000 | 78,65 | Ternopil | 3 | 1 |
Vinnytsia Oblast | VI | 26.501,6 | 1.566.000 | 62,12 | Vinnytsia | 6 | 6 |
Volyn Oblast | VO | 20.135,3 | 1.046.000 | 51,56 | Lutsk | 4 | 4 |
Zakarpattia Oblast | ZK | 12.771,5 | 1.247.000 | 97,59 | Uzhhorod | 6 | 5 |
Zaporizhzhia Oblast | ZP | 27.168,5 | 1.699.000 | 66,45 | Zaporizhzhia | 5 | 5 |
Zhytomyr Oblast | ZT | 29.819,2 | 1.213.000 | 43,03 | Zhytomyr | 4 | 5 |
Tỉnh Dnipropetrovsk và Kirovohrad Oblast đang chờ đổi tên sau khi các thành phố thủ phủ của chúng đổi thành Dnipro và Kropyvnytskyi.