Ở nội dung nước rút nữ, Laura Dahlmeier của Đức đạt thành tích 21:06.2 giành huy chương vàng, Marte Olsbu của Na Uy đạt 21:30.4 giành huy chương bạc, và Veronika Vítková của Cộng hòa Séc về đích với thành tích 21:32.0 giành huy chương đồng.[8]
Lim Hyo-jun của Hàn Quốc thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 2:10.485 ở vòng đua chung kết 1500 mét nam và giành vàng. Sjinkie Knegt của Hà Lan (2:10.555) giành huy chương bạc, và Semion Elistratov của Nga (2:10.687) giành huy chương đồng.[11]
Ở vòng loại 500m nữ, Elise Christie của Anh Quốc thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 42 giây 872, tuy nhiên bị phá ngay sau đó bởi Choi Min-jeong của Hàn Quốc với cách biệt 0,002 giây.[12]
Ở vòng loại 3000m tiếp sức nữ, đội Hàn Quốc thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 4:06.387, tuy nhiên bị đội Trung Quốc phá sau đó với thời gian 4:05.315.[13]
Ở nội dung nước rút nam, Arnd Peiffer của Đức đạt thành tích 23:38.8 và giành huy chương vàng, Michal Krčmář của Cộng hòa Séc đạt 23:43.2 giành huy chương bạc, còn Dominik Windisch của Ý về đích với thành tích 23:46.5 giành huy chương đồng.[19]
Diễn ra các phân môn khiêu vũ trên băng ngắn, đơn nữ ngắn, và đôi tự do của nội dung đồng đội. Canada dẫn đầu với 45 điểm. Evgenia Medvedeva thiết lập điểm số tốt nhất (81.06) ở phần thi đơn nữ ngắn.[21]
Vòng loại dốc chướng ngại vật nữ bị hoãn vì gió to. Các vận động viên sẽ thi đấu tại vòng chung kết gồm hai lượt trượt thay vì một vòng loại 2 lượt trượt vvaf vòng chung kết 3 lượt trượt.[25]
Ở nội dung 5000 m nam, Sven Kramer của Hà Lan thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 6:09.76 và giành huy chương vàng. Ted-Jan Bloemen của Canada (6:11.616) giành huy chương bạc và Sverre Lunde Pedersen (6:11.618) của Na Uy giành huy chương đồng.[26]
Nội dung đuổi bắt nữ kết thúc với người về đích đầu tiên là Laura Dahlmeier của Đức, với thời gian 30:35.3, huy chương bạc là Anastasiya Kuzmina của Slovakia với thời gian 31:04.7, và huy chương đồng là Anaïs Bescond của Pháp với thời gian 31:04.9.[29]
Ngày cuối cùng của nội dung đồng đội với các phần thi nam tự do, nữ tự do, và khiêu vũ trên băng tự do. Canada giành vàng với 73 điểm, Nga giành bạc với 66 điểm, Hoa Kỳ giành đồng với 62 điểm.[30]
Nội dung 1500 m nữ có người về đầu tiên là Ireen Wüst của Hà Lan với thời gian 1:54.35. Huy chương bạc thuộc về Miho Takagi với thời gian 1:54.55, trong khi tấm huy chương đồng là của Marrit Leenstra thuộc đoàn Hà Lan với thời gian 1:55.26.[36]
Nga sau đó bị tước huy chương đồng vào ngày 22 tháng 2 sau khi Aleksandr Krushelnitskiy thất bại trong buổi thử doping. Na Uy là đội giành huy chương đồng.[40]
Các lượt thi chung kết đơn nữ kết thúc với chiến thắng của Natalie Geisenberger tới từ Đức với thời gian 3:05.232, về sau là đồng hương Dajana Eitberger với thời gian 3:05.599 và Alex Gough của Canada với thời gian 3:05.644.[41]
Các đợt thi chung kết của 500 mét nữ kết thúc với người về nhất là Arianna Fontana của Ý với thời gian 42.569. Huy chương bạc thuộc về Yara van Kerkhof của Hà Lan với thời gian 43.256, trong khi Kim Boutin của Canada về thứ ba với thời gian 43.881.[42]
Các đợt thi vòng loại của nội dung 1000 mét nam kết thúc với sự kiện Charles Hamelin thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 1:23.407.[43]
Các đợt thi vòng loại của nội dung 5000 mét tiếp sức nam diễn ra, trong đó Hàn Quốc lọt vào chung kết với thời gian nhanh nhất, đồng thời thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 6:34.510.[44]
Chung kết Lòng máng nữ kết thúc với người về nhất là Chloe Kim của Hoa Kỳ với số điểm 98.25. Huy chương bạc thuộc về Liu Jiayu của Trung Quốc với số điểm 89.75, trong khi huy chương đồng thuộc về Arielle Gold của Hoa Kỳ với số điểm 85.75.[45]
Ở chung kết nội dung lòng máng nam, huy chương vàng thuộc về Shaun White của Hoa Kỳ với số điểm 97.75. Huy chương bạc thuộc về Ayumu Hirano của Nhật với số điểm 95.25, còn huy chương đồng thuộc về Scott James người Úc với số điểm 92.00.[53]
Ở nội dung 1000 mét nữ, huy chương vàng thuộc về Jorien ter Mors của Hà Lan khi cô thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 1:13.56. Huy chương bạc thuộc về Nao Kodaira của Nhật Bản với thời gian 1:13.82, còn huy chương đồng thuộc về đồng hương Miho Takagi với thời gian 1:13.98.[54]
Do gió to vào ngày 11 tháng 2, nội dung đổ dốc nam được dời về ngày 15 tháng 2.[18] Người về nhất là Aksel Lund Svindal của Na Uy với thời gian 1:40.25, theo sau là người đồng hương Kjetil Jansrud với thời gian 1:40.37, và Beat Feuz của Thụy Sĩ với thời gian 1:40.43.[55]
Nội dung super-G nam bị hoãn sang ngày 16 tháng 2 để giành chỗ cho nội dung đổ dốc nam.[18]
Nội dung cá nhân nữ được dời về ngày 15 tháng 2 do gió to vào ngày 14 tháng 2.[49] Huy chương vàng thuộc về Hanna Öberg của Thụy Điển với thời gian 41:07.2. huy chương bạc thuộc về Anastasiya Kuzmina của Slovakia với thời gian 41:31.9, trong khi huy chương đồng thuộc về Laura Dahlmeier của Đức với thời gian 41:48.4.[58]
Ở nội dung 10 km tự do nữ, huy chương vàng thuộc về Ragnhild Haga của Na Uy với thời gian 25:00.5. huy chương bạc thuộc về Charlotte Kalla của Thụy Điển với thời gian 25:20.8, trong khi huy chương đồng được trao cho Marit Bjørgen của Na Uy và Krista Pärmäkoski và Phần Lan sau khi cả hai vận động viên cùng đạt thành tích 25:32.4.[59]
Ở nội dung tiếp sức đồng đội, huy chương vàng thuộc về đội Đức với thời gian 2:24.517, theo sau là đội Canada với thời gian 2:24.872 và Áo với thời gian 2:24.988.[62]
Ở nội dung 10.000 m nam, huy chương vàng thuộc về Ted-Jan Bloemen của Canada với thời gian lập kỷ lục Olympic là 12:39.77. Huy chương bạc thuộc về Jorrit Bergsma của Hà Lan với thời gian 12:41.98, trong khi huy chương đồng thuộc về Nicola Tumolero của Ý với thời gian 12:54.32.[65]
Ở nội dung super-G nam được chuyển về ngày này do việc sắp xếp lại lịch thi đấu của nội dung đổ dốc nam.[18] Người về nhất là Matthias Mayer của Áo với thời gian 1:24.44. Huy chương bạc thuộc về Beat Feuz của Thụy Sĩ với thời gian 1:24.57, còn huy chương đồng thuộc về Kjetil Jansrud của Na Uy với thời gian 1:24.62.[66]
Chung kết không trung nữ chứng kiện sự lên ngôi của Hanna Huskova tới từ Belarus với số điểm 96.14. Huy chương bạc thuộc về Zhang Xin của Trung Quốc với số điểm 95.52, còn huy chương đồng thuộc về đồng hương Kong Fanyu với số điểm 70.14.[69]
Hai lượt thi cuối cùng của nam. Người chiến thắng là Yun Sung-bin của Hàn Quốc với thời gian 3:20.55, tiếp theo sau là Nikita Tregubov của Nga với thời gian 3:22.18 và Dominic Parsons của Anh Quốc với thời gian 3:22.20.[70]
Ở nội dung super-G nữ, người đứng thứ nhất là Ester Ledecká của Cộng hòa Séc với thời gian 1:21.11, về sau là Anna Veith của Áo với thời gian 1:21.12 và Tina Weirather của Liechtenstein với thời gian 1:21.22.[73]
Ở nội dung 4 × 5 km tiếp sức nữ, đội đứng thứ nhất là Na Uy với thời gian 51:24.3, về sau là Thụy Điển với thời gian 51:26.3 còn Nga đứng thứ ba với thời gian 52:07.6.[75]
Ở phần thi đơn nam tự do, người đứng thứ nhất là Hanyu Yuzuru của Nhật Bản với số điểm 317.85. Tấm huy chương bạc thuộc về đồng hương Uno Shoma với số điểm 306.90, trong khi huy chương đồng thuộc về Javier Fernández của Tây Ban Nha với số điểm 305.24.[76]
Samuel Girard của Canada giành chiến thắng trong trận chung kết 1000 m nam với thời gian 1:24.650 giành huy chương vàng. John-Henry Krueger của Hoa Kỳ về nhì với thời gian 1:24.864, và Seo Yi-ra của Hàn Quốc về thứ ba với thời gian 1:31.619.[79]
Chung kết 1500 m nữ, người đứng thứ nhất là Choi Min-jeong của Hàn Quốc với thời gian 2:24.948. Li Jinyu của Trung Quốc về thứ nhì với thành tích 2:25.703 còn Kim Boutin của Canada về thứ ba với thành tích 2:25.834.[80]
Ở nội dung 4 × 10 km tiếp sức nam đội giành huy chương vàng là Na Uy với thời gian 1:33:04.9, về sau là Nga với thời gian 1:33:14.3 và Pháp với thời gian 1:33:41.8.[86]
Ở chung kết nội dung không trung nam, những người chiến thắng là Oleksandr Abramenko của Ukraina với số điểm 128.51. Huy chương bạc thuộc về Jia Zongyang của Trung Quốc với số điểm 128.05, còn huy chương đồng thuộc về Ilya Burov của Nga với số điểm 122.17.[88]
Ở nội dung 500 m nữ người giành huy chương vàng là Nao Kodaira của Nhật Bản với thành tích phá kỷ lục Olympic là 36 giây 94. Huy chương bạc thuộc về Lee Sang-hwa với thời gian 37.33, còn huy chương đồng thuộc về Karolína Erbanová người Séc với thời gian 37.34.[90]
Ở nội dung đồi lớn đồng đội nam, đội chiến thắng là Na Uy với số điểm 1098.5. Huy chương bạc thuộc về đội Đức với số điểm 1075.7, trong khi huy chương đồng thuộc về Ba Lan với số điểm 1072.4.[94]
Ở nội dung tiếp sức hỗn hợp, đội chiến thắng là Pháp với thời gian 1:08:34.3, về sau là đội Na Uy với thời gian 1:08:55.2 và Ý với thời gian 1:09:01.2.[98]
Ở vòng chung kết 3000 m tiếp sức nữ, đội Hàn Quốc giành huy chương vàng với thời gian 4:07.361, theo sau là đội Ý (4:15.901). Do Trung Quốc và Canada bị truất quyền thi đấu ở chung kết A, huy chương đồng được trao cho Hà Lan, đội xuất sắc về nhất chung kết B (để xác định đội xếp thứ 5) với kỷ lục thế giới 4:03.471.[103]
Ở nội dung nước rút đồng đội nam, chiến thắng thuộc về đội Na Uy với thời gian 15:56.26, về đích sau là Nga với thời gian 15:57.97 và Pháp với thời gian 15:58.28.[108]
Ở nội dung nước rút đồng đội nữ, chiến thắng thuộc về Hoa Kỳ với thời gian 15:56.47, về sau là Thụy Điển với thời gian 15:56.66 và Na Uy với thời gian 15:59.44.[109]
Tại các lượt thi chung kết đuổi bắt đồng đội nam, chiến thắng thuộc về đội Na Uy với thời gian 3:37.32, về sau là Hàn Quốc với thời gian 3:38.52. Huy chương đồng về tay đội Hà Lan sau khi thắng trong trận tranh huy chương đồng với thời gian 3:38.40 trước New Zealand (3:43.54).[113]
Tại các lượt thi chung kết đuổi bắt đồng đội nữ, chiến thắng thuộc về đội Nhật Bản với kỷ lục Olympic là 2:53.89, chiến thắng đội Hà Lan với thời gian 2:55.48. Huy chương đồng về tay Hoa Kỳ với thời gian 2:59.27, đội đã thắng đội Canada (2:59.72) ở trận tranh hạng ba.[114]
Ở nội dung dích dắc nam, huy chương vàng thuộc về André Myhrer của Thụy Điển với tổng thời gian 1:38.99. Ramon Zenhäusern của Thụy Sĩ giành huy chương bạc với tổng thời gian 1:39.33, và Michael Matt của Áo đứng thứ ba với tổng thời gian 1:39.66.[115]
Do dự báo gió lớn vào ngày 23 tháng 2, nội dung kết hợp nữ được tổ chức sớm về ngày 22.[116]Michelle Gisin của Thụy Sĩ giành vàng với thời gian 2:20.90, Mikaela Shiffrin của Hoa Kỳ giành huy chương bạc với thời gian 2:21.87, còn Wendy Holdener của Thụy Sĩ đứng thứ ba với thành tích 2:22.34.[117]
Ở nội dung tiếp sức nữ, huy chương vàng thuộc về đội Belarus với thời gian 1:12:03.4. Thụy Điển về nhì với thời gian 1:12:14.1 còn đội Pháp đứng thứ ba với thành tích 1:12:21.0.[118]
Tại chung kết nội dung lòng máng nam, David Wise của Hoa Kỳ giành vàng với số điểm 97.20, Alex Ferreira của Hoa Kỳ về nhì với thành tích 96.40, còn Nico Porteous của New Zealand giành được 94.80 điểm qua đó đoạt tấm huy chương đồng.[119]
Ở nội dung đồi lớn đồng đội/4 × 5 km, huy chương vàng thuộc về đội Đức với thời gian 46:09.8, xếp sau là Na Uy với thời gian 47:02.5 và Áo với thời gian 47:17.6.[120]
Tại chung kết nội dung 1000 m nữ, Suzanne Schulting của Hà Lan giành huy chương vàng với thời gian 1:29.778, Kim Boutin của Canada giành huy chương bạc với thời gian 1:29.956, còn Arianna Fontana của Ý về thứ ba với thời gian 1:30.656.[121]
Wu Dajing của Trung Quốc thiết lập kỷ lục thế giới tại chung kết nội dung 500 m nam với thời gian 39.584. Hwang Dae-heon và Lim Hyo-jun của Hàn Quốc lần lượt về thứ hai và thứ ba với thời gian 39.854 và 39.919.[122]
Tại chung kết nội dung 5000 m tiếp sức nam, đội Hungary thiết lập kỷ lục Olympic với thời gian 6:31.971 và giành huy chương vàng. Trung Quốc xếp thứ hai (6:32.035) còn Canada đứng thứ ba (6:32.282).[123]
Do dự báo gió to vào ngày 23 tháng 2, vòng chung kết nội dung big air nữ được chuyển sang ngày này.[125]Anna Gasser của Áo giành vàng với số điểm 185.00, Jamie Anderson của Hoa Kỳ giành huy chương bạc với thành tích 177.25, còn Zoi Sadowski-Synnott của New Zealand đứng thứ ba với thành tích 157.50.[126]
Ở nội dung tiếp sức nam, huy chương vàng thuộc về đội Thụy Điển với thời gian 1:15:16.5, về sau là Na Uy với thời gian 1:16:12.0 và đội Đức với thời gian 1:17:23.6.[128]
Ở phần thi ngắn nội dung đơn nữ, người giành huy chương vàng là Alina Zagitova của Nga với tổng điểm là 239.57, Evgenia Medvedeva của Nga giành huy chương bạc với số điểm 238.26, còn Kaetlyn Osmond của Canada đứng thứ ba với số điểm 231.02.[129]
Ở nội dung 1000 m nam, huy chương vàng thuộc về Kjeld Nuis của Hà Lan với thời gian 1:07.95. Huy chương bạc thuộc về Håvard Holmefjord Lorentzen của Na Uy với thời gian 1:07.99, trong khi huy chương đồng thuộc về Kim Tae-yun của Hàn Quốc với thời gian 1:08.22.[131]
Ở nội dung đồng đội hỗn hợp, đội tuyển Thụy Sĩ thắng Áo với 3–1 trong trận tranh huy chương vàng. Na Uy giành huy chương đồng sau khi hòa 2–2 với Pháp nhưng có tổng thời gian nhanh hơn (41.17 so với 41.29).[132]
Tại vòng đấu chung kết big air nam, Sebastien Toutant của Canada giành huy chương vàng với tổng điểm 174.25. Kyle Mack của Hoa Kỳ về thứ hai với số điểm 168.75 còn Billy Morgan của Anh Quốc giành huy chương đồng với 168.00 điểm.[134]
Ở nội dung dích dắc lớn song song nam: các lượt thi vòng loại được chuyển từ ngày 22 tháng 2 về ngày 24 để sát với ngày thi đấu chung kết.[124] Ở cuộc đua tranh huy chương vàng, Nevin Galmarini của Thụy Sĩ đánh bại Lee Sang-ho của Hàn Quốc với cách biệt 0,43 giây. Ở trận tranh huy chương đồng, Žan Košir của Slovenia thắng Sylvain Dufour của Pháp với cách biệt 1,49 giây.[135]
Ledecká, người giành huy chương vàng ở nội dung super-G nữ môn trượt tuyết đổ đèo, trở thành nữ vận động viên đầu tiên giành hai huy chương vàng ở các môn khác nhau trong một kỳ Thế vận hội.[137]
^Được trao sau khi đội thắng trận tranh huy chương đống bị tước huy chương vì doping.
^Hà Lan vượt kỷ lục thế giới ở chung kết B (tranh hạng năm) của 3000 mét tiếp sức nữ, được trao huy chương đồng sau khi cả Trung Quốc và Canada phạm luật và bị loại ở chung kết A (vòng tranh huy chương).
^ abcdTrận tranh hạng ba diễn ra vào ngày hôm trước.
PineX là ứng dụng thuộc công ty Pinetree - Thành viên của Hanwha Investment and Securities Co.Ltd., thuộc tập đoàn Hanwha, một trong bảy tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc