Thiên hoàng Cảnh Hành Keikō-tennō 景行天皇 | |
---|---|
Thiên hoàng Nhật Bản | |
Thiên hoàng thứ mười hai của Nhật Bản | |
Trị vì | 71 – 130 (huyền thoại) (dương lịch) 11 tháng 7 năm Thiên hoàng Keikō thứ 1 – 7 tháng 11 năm Thiên hoàng Keikō thứ 60 (59 năm, 119 ngày) (âm lịch Nhật Bản) |
Tiền nhiệm | Thiên hoàng Suinin |
Kế nhiệm | Thiên hoàng Seimu |
Thông tin chung | |
Sinh | 7 tháng 11 năm 13 TCN Nhật Bản |
Mất | 23 tháng 12 năm 130 (143 tuổi) Nara |
An táng | Yamanobe no michi no e no misasagi (山辺道上陵) (Nara) |
Phối ngẫu | |
Hoàng tộc | Hoàng gia Nhật Bản |
Thân phụ | Thiên hoàng Sujin |
Thân mẫu | Hibasu-hime |
Thiên hoàng Keikō (景行天皇, Keikō-tennō , Cảnh Hành Thiên hoàng) là vị Thiên hoàng thứ 12 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống.[1] Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và triều đại của vị Thiên hoàng này. Keikō được các nhà sử học coi là một "Thiên hoàng truyền thuyết" vì thiếu thông tin về ông, mà cũng không thể phủ định được việc một người như thế đã từng tồn tại. Hơn nữa, các học giả chỉ biết than thở rằng, ở thời điểm này, không có đủ các bằng chứng để nghiên cứu và thẩm tra kỹ càng hơn.
Truyện về ông được ghi lại trong Cổ Sự Ký và Nhật Bản Thư Kỷ, nhưng các ghi chép lại khác nhau ở 2 nguồn. Trong Cổ Sự Ký ông cử con trai mình là Yamato Takeru đến Kyūshū để chinh phục các bộ lạc địa phương. Trong Nhật Bản Thư Kỷ Thiên hoàng Keikō ngự giá thân chinh và đánh thắng các bộ tộc địa phương. Theo cả hai nguồn, ông cử Yamatotakeru đến tỉnh Izumo và các tỉnh phía Đông để xâm chiếm đất đai và mở rộng lãnh thổ.[2]
Ông được xem là một vị vua hiền. Vào năm 1875, khi thầy học của Thiên hoàng Minh Trị là Motoda Nagazane hỏi Thiên hoàng mến mộ vị tiên đế nào nhất thì Minh Trị đáp là Thiên hoàng Jimmu là nhất vì những chiến tích cùng với ảnh hưởng sâu rộng với dân tộc của hai Thiên hoàng này. Thực sự, cả hai vị vua này đều có công lớn trong việc thành lập và thống nhất Nhật Bản.[3][4] Mặc dù nơi an nghỉ cuối cùng của vị quốc chủ truyền thuyết này vẫn còn chưa biết, lăng mộ hoàng gia chính thức của Keikō ngày nay có thể đến thăm tại Shibutani-cho, thành phố Tenri gần thành phố Nara.[5]
Vương hậu(đầu tiên): Harima no Inabi no Ooiratsume (播磨稲日大郎姫), con gái của Wakatakehiko (若建吉備津日子)
Hoàng hậu(second): Yasakairihime (八坂入媛命), con gái của Yasakairihiko (八坂入彦命)
Mizuhanoiratume (水歯郎媛), con gái của Iwatsukuwake (磐衝別命), em gái của Iwakiwake (石城別王)
Ikawahime (五十河媛)
Abe no Takadahime (阿倍高田媛), con gái của Abe no Kogoto (阿倍木事)
Himuka no Kaminagaootane (日向髪長大田根)
Sonotakehime (襲武媛)
Himuka no Mihakashihime (日向御刀媛)
Inabinowakairatsume (伊那毘若郎女), con gái của Wakatakehiko, em gái của Harima no Inabi no Ooiratsume
Igotohime (五十琴姫命), con gái của Mononobe no Igui (物部胆咋宿禰)