Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển

Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển
Khẩu hiệuatt främja vetenskaperna och stärka deras inflytande i samhället
(to promote the sciences and strengthen their influence in society)
Thành lập2 tháng 6 năm 1739
Trụ sở chínhStockholm, Thụy Điển
Thành viên
1600 Fellows
175 Foreign Members
Chủ tịch
Svante Lindqvist
Trang webwww.kva.se
Kungliga Vetenskapsakademien

Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: Kungliga Vetenskapsakademien ("KVA") là một trong các viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển. Viện này là một tổ chức khoa học độc lập, phi chính phủ hành động để thúc đẩy các ngành khoa học, chủ yếu là khoa học tự nhiên và toán học. Viện được thành lập vào ngày 2 tháng 6 năm 1739 bởi nhà tự nhiên học Carl Linnaeus, nhà trọng thương Jonas Alströmer, kỹ sư cơ khí Marten Triewald, công chức, viên chức dân sự Sten Carl BielkeCarl Wilhelm Cederhielm, và chính trị gia Anders Johan von Höpken.[1]

Mục đích của viện là để tập trung vào kiến thức thực tế hữu ích, và xuất bản ở Thụy Điển để phổ biến rộng rãi những phát hiện của học viện. Viện đã được dự định khác nhau từ các Hội Khoa học Hoàng gia tại Uppsala, đã được thành lập năm 1719 và xuất bản bằng tiếng Latinh. Vị trí gần các hoạt động thương mại tại thủ đô của Thụy Điển (mà không giống như Uppsala đã không có một trường đại học tại thời điểm này) là cố ý. Học viện được mô hình hóa sau khi Hội Hoàng gia London và Academie Royale des Sciences ở Paris, Pháp, mà một số của các thành viên sáng lập đã quen thuộc với.

Ủy ban của Học viện hành động như Ban lựa chọn cho giải thưởng quốc tế:

và các giải quốc gia:[7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “History”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  2. ^ “Nobel Prizes”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  3. ^ “Prize in Economic Sciences”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  4. ^ “Crafoord Prize”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  5. ^ “Rolf Schock Prizes”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  6. ^ “Gregori Aminoff Prize”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
  7. ^ “National prizes”. The Royal Swedish Academy of Sciences. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2007.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Những bài học kinh doanh rút ra từ Itaewon Class
Những bài học kinh doanh rút ra từ Itaewon Class
Đối với mình, điểm đặc sắc nhất phim chính là cuộc chiến kinh doanh giữa quán nhậu nhỏ bé DanBam và doanh nghiệp lớn đầy quyền lực Jangga
[Review phim] Người Vợ Cuối Cùng - Liệu có đáng xem hay không?
[Review phim] Người Vợ Cuối Cùng - Liệu có đáng xem hay không?
Điểm cộng của phim rơi hết vào phần hình ảnh, âm thanh và diễn xuất của hầu hết dàn diễn viên.
Giới thiệu Burglar - Sư phụ Goblin Slayer
Giới thiệu Burglar - Sư phụ Goblin Slayer
Sau thảm kịch xảy ra với chị gái và ngôi làng của mình, Goblin Slayer được một mạo hiểm giả tộc Rhea cứu giúp
Những điều khiến Sukuna trở nên quyến rũ và thành kẻ đứng đầu
Những điều khiến Sukuna trở nên quyến rũ và thành kẻ đứng đầu
Dáng vẻ bốn tay của anh ấy cộng thêm hai cái miệng điều đó với người giống như dị tật bẩm sinh nhưng với một chú thuật sư như Sukuna lại là điều khiến anh ấy trở thành chú thuật sư mạnh nhất