Bell XP-83

XP-83
XP-83 số seri 44-84990 trong chuyến bay thử nghiệm ở Wright Field, tháng 5/1945
KiểuMáy bay tiêm kích hộ tống
Hãng sản xuấtBell Aircraft
Thiết kếCharles Rhodes
Chuyến bay đầu tiên25 tháng 2-1945
Ngừng hoạt động1947
Tình trạngBị hủy bỏ
Khách hàng chínhHoa Kỳ Không quân Lục quân Hoa Kỳ
Số lượng sản xuất2
Chi phí dự án4,2 triệu USD[1]
Được phát triển từBell P-59 Airacomet

Bell XP-83 là một mẫu thử máy bay tiêm kích hộ tống của Hoa Kỳ do hãng Bell Aircraft thiết kế trong Chiến tranh Thế giới II. Nó bay lần đầu vào năm 1945. Đây là một trong những máy bay phản lực đầu tiên của Hoa Kỳ, nhưng do hiệu năng kém nên đã bị thay thế bởi những mẫu thiết kế tiên tiến hơn.

Thiết kế và phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Các máy bay tiêm kích phản lực đời đầu tiêu thụ nhiên liệu rất lớn, khiến máy bay có tầm hoạt động cũng như thời gian bay hạn chế. Tháng 3/1944, Không quân Lục quân Hoa Kỳ (USAAF) yêu cầu hãng Bell thiết kế một mẫu tiêm kích tăng thời gian bay, và chính thức ký 1 hợp đồng chế tạo 2 mẫu thử vào 31/7/1944.

Hãng Bell bắt đầu làm việc với mẫu thiết kế "Model 40" từ năm 1943. Nó được thiết kế lại từ máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa P-59 Airacomet, vẫn giữ nguyên bố trí tổng thể. 2 động cơ tuabin phản lực General Electric J33-GE-5 được đặt ở gốc cánh mỗi bên, còn thân dùng để chứa nhiên liệu và vũ khí. Khung thân làm bằng kim loại, có thể mang được 1.150 gal (4.350 l) nhiên liệu, ngoài ra cũng có thể mang được 2 thùng nhiên liệu bên ngoài 250 gal (950 l). Buồng lái được điều áp, nắp vòm kính nhỏ và thấp. Vũ khí gồm 6 khẩu súng máy 0,5 in (12,7 mm) ở mũi.

Thử nghiệm[sửa | sửa mã nguồn]

Các báo cáo thử nghiệm mô hình trong hầm gió chỉ ra sự bất ổn định hướng, nhưng đuôi lớn hơn sẽ giúp khắc phục được vấn đề này, mặc dù nó vẫn chưa sẵn sàng cho bay thử nghiệm.[2] Mẫu thử đầu tiên bay ngày 25/2/1945, do phi công thử nghiệm của Bell là Jack Woolams điều khiển, Woolams thấy nó không ổn định và không đủ nhanh. Mẫu thử thứ 2 có đuôi mở rộng và hệ thống cánh lái nhỏ.[3] Một đặc tính đặc trưng là XP-83 rất khó giảm tốc độ do hình dáng khí động thon và thiếu phanh hãm; phi công thử nghiệm buộc phải bay là mặt đất trên quãng đường dài mới hạ cánh được.[4]

Mẫu thử đầu tiên được sử dụng vào năm 1946 với nhiệm vụ thử nghiệm động cơ ramjet, người ta làm thêm chỗ ngồi cho kỹ sư ngay sau chỗ ngồi của phi công, ngày 14/9/1945 một động cơ ramjet đã xảy ra cháy – phi công "Slick" Goodlin và kỹ sư Charles Fay đã phải nhảy dù để thoát ra. Mẫu thử thứ hai bay ngày 19/10 và bị hủy bỏ vào năm 1947. XP-83 kém hơn P-80 Shooting Star của Lockheed về nhiều mặt, nên đề án XP-83 bị hủy bỏ vào năm 1947.

Tính năng kỹ chiến thuật (XP-83)[sửa | sửa mã nguồn]

Dữ liệu lấy từ War Planes of the Second World War[5]

Đặc điểm riêng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tổ lái: 1
  • Chiều dài: 44 ft 10 in (13,67 m)
  • Sải cánh: 53 ft 0 in (16,15 m)
  • Chiều cao: 15 ft 3 in (4,65 m)
  • Diện tích cánh: 431 sq ft (40,0 m²)
  • Trọng lượng rỗng: 14.105 lb (6.400 kg)
  • Trọng lượng có tải: 24.090 lb (10.930 kg)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 27.500 lb (12.500 kg)
  • Động cơ: 2 động cơ tuabin phản lực General Electric J33-GE-5, lực đẩy 4.000 lbf (18 kN) mỗi chiếc

Hiệu suất bay[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ khí[sửa | sửa mã nguồn]

  • Súng:
    • 6 khẩu súng máy M2.50 in (12,7 mm) hoặc
    • 6 khẩu súng máy T17E3.60 in (15,2 mm) hoặc
    • 4 khẩu pháo Hispano 20 mm (0,79 in) hoặc
    • 1 khẩu pháo 37 mm (1,46 in) ở mũi
  • 2 quả bom

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Máy bay có cùng sự phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Knaack 1978, p. 318.
  2. ^ Koehnen 1982, p. 24.
  3. ^ Koehnen 1982, pp. 44, 48.
  4. ^ Koehnen 1982, p. 48.
  5. ^ Green 1961, p. 24.

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • Carpenter, David M. Flame Powered: The Bell XP-59A Airacomet and the General Electric I-A Engine. Boston: Jet Pioneers of America, 1982. ISBN 0-9633387-0-6. (Page 59 is about the XP-83.)
  • Green, William. War Planes of the Second World War: Fighters, Volume Four. London: Macdonald, 1961 (6th impression 1969). ISBN 0-356-01448-7.
  • Green, William and Gordon Swanborough. WW2 Aircraft Fact Files: US Army Air Force Fighters, Part 1. London: Macdonald and Jane's Publishers Ltd., 1977. ISBN 0-356-08218-0.
  • Knaack, Marcelle Size. Encyclopedia of US Air Force Aircraft and Missile Systems: Volume 1 Post-World War II Fighters 1945-1973. Washington, DC: Office of Air Force History, 1978. ISBN 0-912799-59-5.
  • Koehnen, Richard C. "Bell's No Name Fighter." Airpower, Vol. 12, no. 1. January 1982.
  • Pelletier, Alain J. Bell Aircraft Since 1935. Annapolis, MD: Naval Institute Press, 1992. ISBN 1-55750-056-8.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Ngay từ khi bắt đầu Tensura, hẳn chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh Shizu và chiếc mặt nạ, thứ mà sau này được cô để lại cho Rimuru
Việt Nam và ván cờ Biển Đông
Việt Nam và ván cờ Biển Đông
Không ai có thể chọn được hàng xóm, và Việt Nam đã mang trên mình số phận của 1 quốc gia nhỏ yếu kề tường sát vách bên cạnh 1 nước lớn và hùng mạnh là Trung Quốc
Nhân vật Ponison Pop Perlia - Cô bé tinh linh nhút nhát Overlord
Nhân vật Ponison Pop Perlia - Cô bé tinh linh nhút nhát Overlord
Cô có vẻ ngoài của một con người hoặc Elf, làn da của cô ấy có những vệt gỗ óng ánh và mái tóc của cô ấy là những chiếc lá màu xanh tươi
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Trong thế giới chuyến sinh thành slime các ác ma , thiên thần và tinh linh là những rạng tồn tại bí ẩn với sức mạnh không thể đong đếm