Khám phá [1] | |
---|---|
Khám phá bởi | Scott S. Sheppard David C. Jewitt Yanga R. Fernandez Eugene A. Magnier |
Nơi khám phá | Đài quan sát Mauna Kea |
Ngày phát hiện | 26 tháng 11 năm 2000 |
Tên định danh | |
Tên định danh | Jupiter XXI |
Phiên âm | /kælˈdiːniː/ |
Đặt tên theo | Χαλδηνή Chaldēnē |
S/2000 J 10 | |
Tính từ | Chaldenean /kældɪˈniːən/ |
Đặc trưng quỹ đạo [2] | |
Kỷ nguyên 27 tháng 4 năm 2019 (JD 2 458 600,5) | |
Cung quan sát | 17,46 năm (6376 ngày) |
0,1604721 AU (24.006.280 km) | |
Độ lệch tâm | 0,150 086 4 |
–759,88 ngày | |
159,351 52° | |
0° 28m 25.54s / ngày | |
Độ nghiêng quỹ đạo | 164,253 79° (so với mặt phẳng hoàng đạo) |
215,268 17° | |
340,669 81° | |
Vệ tinh của | Sao Mộc |
Nhóm | Nhóm Carme |
Đặc trưng vật lý[4] | |
Đường kính trung bình | 4 km |
Suất phản chiếu | 0,04 (giả định) |
22,5[3] | |
16,0[2] | |
Chaldene /kælˈdiːniː/, còn được gọi là Jupiter XXI là một vệ tinh dị hình chuyển động ngược của sao Mộc. Nó được phát hiện bởi một nhóm các nhà thiên văn học từ Đại học Hawaii do Scott S. Sheppard dẫn đầu vào năm 2000, và được chỉ định tạm thời là S/2000 J 10.[1][1][5]
Chaldene có đường kính dài khoảng 3,8 km, và quay quanh Sao Mộc ở khoảng cách trung bình 22.713.000 km trong 759,88 ngày, có độ nghiêng quỹ đạo là 167° so với mặt phẳng hoàng đạo (169° so với xích đạo của sao Mộc), chuyển động theo hướng nghịch với vật thể trung tâm của nó và có độ lệch tâm quỹ đạo là 0,2916.
Nó được đặt tên vào tháng 10 năm 2002 theo tên của Chaldene, mẹ của Solymos bởi thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp.[6]
Nó thuộc nhóm Carme, được tạo thành từ các vệ tinh dị hình chuyển động nghịch hành quanh Sao Mộc ở khoảng cách 23 - 24 Gm và ở độ nghiêng khoảng 165°.